This is default featured slide 1 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 2 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 3 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 4 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 5 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Monday, January 1, 2001

Cảnh báo bướu cổ do dùng iod không hợp lý

Bướu cổ là bệnh lý rất hay gặp trên toàn cầu và nhất là ở Việt Nam. Chỉ riêng tại vùng Đông Nam Á đã có tới 176 triệu người (chiếm 13% dân số) bị bệnh bướu cổ. Ở Việt Nam, tuy chưa có số liệu thống kê chính thức vào số bệnh nhân nhưng tại một số vùng có tỉ lệ người mắc bệnh khá cao từ 3% tại vùng ngoại ô Hà Nội tới 67% ở các tỉnh vùng núi như Lào Cai, Tây Nguyên...

Bướu cổ dịch tễ địa phương chiếm 80%

Ở 1 số khoa nội và ngoại tại các bệnh viện lớn ở TP.HCM, số lượng bệnh nhân tới điều trị bệnh bướu cổ khá đông, có thể chiếm đến 1/3 số bệnh nhân phẫu thuật ở một khoa ngoại.

Có nhiều loại bướu cổ, có loại cực kỳ hiểm nguy đến tính mạng như: bướu cổ thông trung thất chèn ép khí quản gây khó thở; bướu cổ đi kèm hội chứng cường giáp, ung thư tuyến giáp hay các loại bướu cổ đơn thuần và bướu cổ dịch tễ địa phương... Hay gặp đặc biệt bướu cổ dịch tễ địa phương thường chiếm đến trên 80% các trường hợp bướu cổ.

Loại bệnh này, ngoài 1 số yếu tố gây bướu khác: di truyền, các tác nhân gây nhiễm khuẩn, các rối loạn về miễn dịch… còn phải kể đến một nguyên nhân rất hay gặp chiếm phần to các trường hợp là do chế độ dinh dưỡng và nước uống của người dân địa phương.

Chú trọng dinh dưỡng

Theo các công trình nghiên cứu của một số chuyên gia y học và nội tiết bậc nhất thế giới, 1 số loại thức ăn chứa đựng tác nhân gây bệnh bướu cổ: khoai mì, hạt kê, các loại rau họ cải như: bắp cải, sữa đậu nành và các chế phẩm từ đậu nành như đậu phụ…

Trong khi đó, các loại rong tảo biển do chứa quá nhiều iod (gây ra tình trạng quá tải iod) cũng làm cho bệnh nhân bị bướu cổ. Chính vì vậy mà những bệnh nhân bị bệnh bướu cổ thường được khuyến cáo nên hạn chế dùng các loại thực phẩm này.

Ở một số vùng do người dân sử dụng nước tại các mạch nước ngầm có chứa nhiều chất disulfure để uống cũng có thể gây ra bệnh bướu cổ. Do chất disulfure ức chế sự hữu cơ hóa trong quá trình tổng hợp hoóc-môn tuyến giáp và gây ra tình trạng nâng cao thể tích tuyến giáp.

Người miền cao với khẩu phần ăn nhiều khoai mì nên dễ bị bướu cổ

Người miền cao với khẩu phần ăn nhiều khoai mì nên dễ bị bướu cổ

Tình trạng suy dinh dưỡng trầm trọng, đặc biệt là thiếu vitamin A, cũng gây ra hiện tượng rối loạn sinh tổng hợp hoóc-môn tuyến giáp và cũng là 1 trong những nguyên nhân dẫn đến bướu cổ. Do vậy, trong khẩu phần ăn của những bệnh nhân bị bướu cổ cần được Quan tâm bổ sung đủ lượng vitamin A cần thiết.

Đừng thêm iod lúc đã đủ

Thế nhưng, nguyên nhân cấp thiết nhất gây ra bệnh bướu cổ dịch tễ lại có liên quan tới chính sách dinh dưỡng, đó chính là tình trạng thiếu hoặc dư thừa iod trong khẩu phần ăn hằng ngày. Việc thiếu hụt iod một mặt gây ra bệnh bướu cổ, mặt khác còn gây nên tình trạng đần độn ở trẻ em.

Ở các vùng núi cao như Tây Nguyên và miền núi phía Bắc, do trong khẩu phần ăn hằng ngày có lượng iod rất thấp nên tỉ lệ bệnh bướu cổ khá cao. Những năm gần đây, việc sử dụng muối iod đồng loạt có tác dụng rất tốt trong bộ phận bệnh bướu cổ và đần độn tại trẻ em cho phần lớn cư dân tại vùng này.

Tuy nhiên, cũng theo các chuyên gia y học, nếu phân phối quá nhiều iod trong khẩu phần ăn hằng ngày 1 thời gian dài cũng đưa đến tình trạng gia tăng bướu cổ. Chính vì vậy, ở các thành phố lớn, các vùng duyên hải… nơi mà trong bữa ăn hằng ngày của người dân đã có hàm lượng iod đủ cho hoạt động sinh tổng hợp hoóc-môn của tuyến giáp thì không cần được cho thêm iod vì sẽ lợi bất cập hại. Kinh nghiệm này đã được chứng minh từ các ngư dân của Nhật Bản.

Bên cạnh vài loại thực phẩm đã nêu, một số tân dược để chữa các bệnh vào rối loạn thể chất như: muối lithium, các loại thuốc tim mạch như cordarone... do có chứa nhiều iod cũng có thể gây ra bệnh bướu cổ hoặc thúc đẩy bệnh tiến triển nhanh hơn.

PGS.TS. NGUYỄN HOÀI NAM

Pháp cam kết hơn một tỷ euro bộ phận chống AIDS, lao và sốt rétPháp cam kết hơn một tỷ euro phòng chống AIDS, lao và sốt rét8 thực phẩm giúp cơ thể sản sinh melatonin cho giấc ngủ ngon8 thực phẩm giúp cơ thể sản sinh melatonin cho giấc ngủ ngonNhững phát minh công nghệ kỳ thúNhững phát minh công nghệ kỳ thú

Bệnh tay - chân

Mùa tựu trường năm nay có một điều khá đặc biệt, ngoài niềm vui được gặp lại thầy cô giáo và bạn bè thương mến, các em học sinh và cả nhà trường sẽ phải ứng phó với tình hình mắc bệnh tay – chân – miệng hiện vẫn gây nhiều lo lắng và hoang mang cho mọi người. Hy vọng lúc biết được sự hiểm nguy của bệnh đối với sức khỏe của mình, các em học sinh sẽ là những chiến sĩ tích cực trong công tác phòng chống dịch bệnh.

Tình hình bệnh tay - chân - miệng thời điểm tựu trường

Theo thông tin từ Cục Y tế dự phòng (Bộ Y tế), tính tới ngày 23/8, cả nước đã ghi tiếp nhân 35.623 trường hợp mắc bệnh tay - chân - miệng (TCM) tại 59 tỉnh, thành phố; trong đó đã có 83 trường hợp tử vong tại 17 tỉnh, thành phố. Số ca mắc gia nâng cao liên tục từ tháng 5/2011, tập trung chính yếu ở các tỉnh, thành phía Nam, miền Trung và một số tỉnh miền Bắc. Theo báo cáo tổng kết của UBND TP.HCM, riêng tháng 8/2011 đã có 1.603 trường hợp mắc bệnh TCM nhập viện; tính trong 8 tháng của năm 2011 đã có 7.114 trường hợp mắc bệnh tay chân miệng (tăng gấp 3 lần so với cùng kỳ năm 2010); có 2 trường hợp tử vong, trong đó 2 quận là quận Bình Tân và quận 8 có số ca tử vong cao nhất (mỗi quận 3 trường hợp).

 Hướng dẫn và khuyến khích trẻ rửa tay sạch sẽ đúng cách bằng xà phòng sát khuẩn trước lúc ăn, sau khi đi vệ sinh
Theo thông lệ, thời điểm bắt đầu cho một năm học mới là vào đầu tháng 9, đây chính là thời điểm được cảnh báo là bệnh tay chân miệng sẽ rơi về đợt cao điểm lần thứ hai trong năm (từ tháng 9 - tháng 11), đó là nỗi lo lắng của nhà trường khi đón các em học sinh về năm học mới. Chủ động, tích cực lên kế hoạch bộ phận chống dịch bệnh sớm trong nhà trường chính là phương cách rất tốt nhất để khống chế sự lây lan của bệnh và dần đẩy lùi căn bệnh truyền nhiễm này.

Bệnh tay - chân - miệng rất dễ lây nhiễm trong môi trường học đường

Môi trường học đường thường được xem là nơi dễ phát tán các bệnh truyền nhiễm, đặc biệt là bệnh TCM vì 3 lý do căn bản sau đây:

- Đây là môi trường đông đúc là điều kiện tiện lợi làm phát tán nhanh chóng các bệnh lý truyền nhiễm nguy hiễm, đặc biệt là nhóm bệnh lây nhiễm qua đường hô hấp, đường phân - miệng và đường tay - miệng.

- Trẻ tại lứa tuổi nhà trẻ, mẫu giáo còn rất hồn nhiên nên việc tiếp xúc giữa trẻ bệnh và trẻ lành là điều rất khó tránh.

- Trẻ còn nhỏ nên chưa ý thức rõ mức độ hiểm nguy của các bệnh thường gặp ở học đường và chưa biết cách tự phòng vệ nên rất dễ bị nhiễm bệnh.

Nguyên tắc “3 sạch” giúp trẻ phòng tránh hiệu quả bệnh tay chân miệng

Phụ huynh nên phối hợp chặt chẽ với nhà trường để thực hiện tốt nguyên tắc “3 sạch” cho trẻ ở gia đình cũng như ở trường học, nhằm hạn chế tối đa sự lây nhiễm cho gia đình và cộng đồng.

Giữ sạch sẽ đôi tay của trẻ: bằng cách hướng dẫn và khuyến khích trẻ rửa tay sạch sẽ đúng cách bằng xà bộ phận sát khuẩn trước lúc ăn, sau lúc đi vệ sinh và sau khi chơi đùa. Rửa tay sạch sẽ giúp trẻ bộ phận tránh hầu hết bệnh lý truyền nhiễm nguy hiểm như bệnh đường hô hấp, tới 45%; các bệnh lây truyền qua đường tiêu hóa trong đó có bệnh TCM, 50%.

Giữ sạch sẽ vật dụng và đồ chơi của trẻ: các tác nhân gây bệnh, nhất là là nhóm virút đường ruột (gọi chung là enterovirus) như Rota virus, Coxsackievirus A16, virút EV71… thường bám dính và tồn ở khá lâu trên vật dụng và đồ chơi của trẻ, trẻ em thường hay bỏ những vật dụng hoặc đồ chơi vô miệng nên rất dễ bị nhiễm bệnh. Rửa sạch vật dụng và đồ chơi của trẻ là cách rất tốt nhất để gặt đi các tác nhân gây bệnh này.

Giữ sạch sẽ sàn nhà cho trẻ: sàn nhà là nơi trẻ thường xuyên tiếp xúc. Sàn nhà không sạch sẽ là mối hiểm nguy cho trẻ. Lau chùi sàn nhà sạch sẽ liên tục cũng là 1 trong những cách bảo vệ trẻ trước sự tấn công của bệnh dịch. Việc lau chùi sàn nhà sạch sẽ theo khuyến cáo của lĩnh vực Y tế bao gồm: lau hoặc rửa sạch bụi và các chất bẩn trên sàn nhà bằng nước và xà bộ phận trước, sau đó mới lau bằng dung dịch khử khuẩn đã pha. Để trong 10 - 20 phút, sau đó lau lại bằng nước sạch và lau khô. Dung dịch sử dụng để khử khuẩn đồ chơi cho trẻ và lau sàn nhà được khuyến cáo là dung dịch Cloramin B hoặc dung dịch nước Javel theo hướng dẫn pha và dùng của ngành Y tế.

Với thông điệp “thường xuyên giữ sạch đôi tay của trẻ, giữ sạch đồ chơi và sàn nhà cho trẻ để ngăn chặn dịch bệnh TCM” phần nào giúp phụ huynh và nhà trường bớt lo lắng vào mối hiểm nguy của căn bệnh dễ lây lan mà cũng không quá khó để bộ phận chống này.

ThS.BS. ĐINH THẠC

Nhiễm rotavirus: Mối nguy hiểm cho trẻ nhỏ

Rotavirus là loại virút đường ruột phổ biến nhất, thường gây tiêu chảy nặng ở trẻ nhỏ trên toàn thế giới. Tại Việt Nam, cứ 2 trẻ nhập viện vì tiêu chảy cấp, có 1 trường hợp là do nhiễm rotavirus.

Rotavirus rất dễ lây nhiễm và lây rất nhanh

Nhiễm rotavirus ở trẻ em chủ yếu qua con đường phân - miệng và tay - miệng. Rotavirus thường được thải ra ngoài theo phân của người bệnh và tồn ở rất lâu ngoài môi trường, virút có thể bám dính ở bàn tay, trên sàn nhà, các đồ vật, vật dụng trong gia đình, đồ chơi của trẻ… nếu phụ huynh không chú ý vệ sinh sạch sẽ có thể là nguồn lây nhiễm bệnh cho trẻ.

Trẻ cũng thuận lợi bị nhiễm bệnh do uống hoặc ăn phải thức ăn bị nhiễm bẩn trong quá trình chế biến, nấu nướng không đảm bảo vệ sinh vì bàn tay người làm bếp bị nhiễm virút do sờ chạm về các bề mặt, các đồ vật (bàn ghế, đồ chơi, sàn nhà…) bị nhiễm bẩn trước đó.

Gần đây, 1 số nhà khoa học nghi ngờ rotavirus cũng có thể truyền qua không khí vì virút được tìm thấy nhiều trong dịch tiết đường hô hấp của những trẻ bị nhiễm bệnh.

Trẻ nhỏ dễ mắc bệnh

Tiêu chảy cấp do rotavirus là bệnh nhiễm khuẩn dạ dày ruột cấp do virút rota gây nên. Bệnh rất thường gặp tại trẻ em và trẻ nhỏ, nhất là là lứa tuổi từ 3 tháng đến 2 tuổi. Trẻ càng nhỏ tuổi thì nguy cơ nhiễm bệnh nặng và phải nhập viện càng cao. Trong 5 năm đầu đời, hầu như không trẻ nào tránh khỏi tiêu chảy cấp do rotavirus.

Tại Việt Nam, tiêu chảy do rotavirus thường gặp nhất ở trẻ từ 3 - 17 tháng tuổi; 46% số trường hợp xảy ra ở trẻ nhũ nhi dưới 5 tháng tuổi và 59% ở trẻ 6 - 11 tháng tuổi. Trẻ càng nhỏ tuổi, nguy cơ nhiễm rotavirus càng cao và mắc bệnh càng nặng. Nhiều trường hợp không được điều trị kịp thời đã dẫn đến những biến chứng hiểm nguy như suy dinh dưỡng, thậm chí tử vong.

Khi trẻ nhiễm rotavirus sẽ đào thải ra ngoài 1 lượng siêu vi rất lớn tới 10 ngàn tỷ, nhưng chỉ cần 1 lượng rất nhỏ khoảng 10 siêu vi là có thể lây nhiễm, gây bệnh cho người. Siêu vi có thể truyền đi 1 cách tiện lợi qua tay bị nhiễm bẩn.

Dấu hiệu trẻ bị nhiễm rotavirus

Sau khi bị lây nhiễm khoảng 12 giờ tới 4 ngày, trẻ bắt đầu xuất hiện các triệu chứng.

Triệu chứng điển hình sau khi trẻ bị nhiễm rotavirus là nôn ói và tiêu chảy: ói xuất hiện trước tiêu chảy 6 - 12 giờ và có thể kéo dài khoảng hai - 3 ngày. Trẻ ói rất nhiều vào ngày đầu và giảm bớt khi Tiến hành đi tiêu chảy. Trẻ thường đi tiêu phân lỏng toàn nước, có lúc màu xanh dưa cải, có thể có đàm, nhớt nhưng không có máu. Tiêu chảy ngày một nâng cao trong vài ngày, sau đó giảm dần. Tiêu chảy và nôn ói có thể lên đến hơn 20 lần/ngày. Đa số các trẻ sẽ hết tiêu chảy sau 4 – 8 ngày. Tuy nhiên có thể có trẻ vẫn còn tiêu chảy đến 2 tuần dù trẻ đã khỏe, bắt đầu chơi đùa và đòi ăn trở lại.

Một số triệu chứng khác có thể xuất hiện tại trẻ như: sốt vừa phải, đau bụng, có thể có ho và chảy mũi nước.

Vì vừa bị nôn ói và tiêu chảy với số lần nhiều như vậy, trẻ bị nhiễm rotavirus rất dễ bị mất nước, nếu như không được chăm sóc thích hợp có thể gây nguy hiểm cho sức khỏe và tính mạng của trẻ.

Nguyên tắc chăm sóc và biện pháp bộ phận ngừa

Việc bù nước cho trẻ là nguyên tắc bậc nhất trong điều trị tiêu chảy do rotavirus, ưu tiên hàng đầu là dung dịch muối đường để bổ sung nước và cả chất điện giải (còn gọi là muối khoáng như Na, kali, chlor…) bị mất qua phân và chất nôn ói, dung dịch uống thường dùng là dung dịch oresol (nước biển khô). 95% các trường hợp tiêu chảy tại trẻ em được điều trị thành công chỉ bằng bù dịch bằng đường uống và cho ăn. Phụ huynh có thể cho trẻ uống các loại dịch uống khác nếu như thấy trẻ khó khăn khi uống oresol, các dịch thay thế khác như nước sôi nguội, nước cơm, nước cháo, nước ép trái cây, nước dừa tươi…

Trẻ còn bú mẹ nên cho bú mẹ càng nhiều càng tốt vì sữa mẹ ngoài việc cung cấp đủ lượng nước cho trẻ, sữa mẹ còn là nguồn dinh dưỡng quý mức giá giúp trẻ chống chọi với bệnh tật và mau lành bệnh.

Rotavirus lây lan nhanh và tồn ở ở xung quanh chúng ta. Đây là loại siêu vi kháng với các chất tẩy rửa thông thường như xà bông, nước javen... Ngoài ra, bệnh tiêu chảy cấp này do siêu vi trùng gây ra, vì vậy kháng sinh không có tác dụng đối với bệnh. Các biện pháp thông thường như rửa tay, bú mẹ, nỗ lự vệ sinh môi trường là các biện pháp làm giảm lây truyền các tác nhân gây bệnh tiêu chảy khác nhưng có vẻ không hữu hiệu để phòng ngừa tiêu chảy do rotavirus. Những nghiên cứu cho thấy cách tốt nhất để bảo vệ trẻ nhỏ khỏi tiêu chảy do rotavirus là chủng ngừa bằng vắc-xin. Tổ chức y tế toàn cầu đã khuyến cáo nên chủng ngừa cho tất cả trẻ nhỏ để bộ phận ngừa căn bệnh nguy hiểm này.

ThS.BS. ĐINH THẠC

Hội chứng HELLP

Hội chứng thiếu máu tan huyết, tăng men gan, giảm tiểu cầu (HELLP) là một biến chứng sản khoa có thể đe dọa tới tính mạng sản phụ, thường được xem là 1 biến thể của tình trạng tiền sản giật. Cả 2 bệnh lý này thường xảy ra trong giai đoạn cuối của thai kỳ, hoặc đôi lúc sau sinh.

Dấu hiệu nhận biết

Thường thì bệnh nhân mắc hội chứng HELLP đã được theo dõi trước đó với tình trạng nâng cao huyết áp do thai nghén, hoặc đã được nghi ngờ có thể diễn biến đến tiền sản giật (tăng huyết áp và protein niệu). Khoảng 8% trường hợp xảy ra sau khi sinh.

Các triệu chứng bao gồm nhức đầu nhiều và nâng cao dần (30%), mờ mắt, khó chịu (90%), buồn nôn và nôn (30%), đau ngang vùng thượng vị (65%) và dị cảm tê tay chân. Phù nề có thể xảy ra, nhưng ví dụ không phù thì cũng chưa hẳn đã loại trừ được hội chứng HELLP.

Tăng huyết áp là một dấu hiệu để chẩn đoán, nhưng có thể chỉ tăng nhẹ.

Vỡ bao gan kèm theo hậu quả là khối máu tụ có thể xảy ra.

Nếu bệnh nhân có co giật và hôn mê, thì tình trạng được xem là đã diễn biến tới sản giật toàn phần.

Đông máu nội mạch lan tỏa gặp ở khoảng 20% phụ nữ bị hội chứng HELLP và tại 84% trường hợp nếu hội chứng HELLP đi kèm với suy thận cấp.

Bệnh nhân có các triệu chứng của hội chứng HELLP có thể bị chẩn đoán sai tại giai đoạn sớm, làm tăng nguy cơ suy gan và khiến tình trạng bệnh nặng hơn.

Hiếm gặp hơn, tại bệnh nhân sau mổ lấy thai có thể xảy ra tình trạng sốc dễ gây nhầm lẫn với thuyên tắc phổi hoặc xuất huyết phản ứng.

 Thai phụ cần được theo dõi thường xuyên.
Vì sao mắc bệnh?

Nguyên nhân chuẩn xác của hội chứng HELLP chưa được biết rõ, bên cạnh đó sự kích hoạt toàn bộ quy trình đông máu được xem là nhân tố chủ yếu.

Fibrin tạo ra những mạng lưới chằng chịt trong các mạch máu nhỏ. Điều này dẫn đến bệnh cảnh thiếu máu tán huyết vi mạch do mạng lưới này gây ra sự phá hủy của các hồng cầu lúc chúng bị đẩy qua. Ngoài ra, còn có sự tiêu hao của các tiểu cầu.

Do gan có thể là vị trí cốt yếu của quy trình này, các tế bào gan tại phía hạ lưu sẽ bị thiếu máu, dẫn đến hoại tử vùng quanh khoảng cửa.

Các cơ quan khác cũng bị ảnh hưởng tương tự. Hội chứng HELLP dẫn tới một biến thể của đông máu nội mạch lan tỏa (DIC), hậu quả là tình trạng xuất huyết nghịch thường sẽ xảy ra, có thể khiến việc phẫu thuật cấp cứu trở thành 1 thách đố nghiêm trọng.

Ðiều trị thế nào?

Điều trị hiệu quả duy nhất là nhanh chóng lấy ngay thai nhi ra khỏi tử cung.

Một số thuốc đã được nghiên cứu để điều trị hội chứng HELLP, nhưng các chứng cứ còn mâu thuẫn quanh việc magnesium sulfate có giúp làm giảm nguy cơ co giật dẫn tới sản giật hay không.

Tình trạng đông máu nội mạch lan tỏa được xử trí bằng huyết tương tươi đông lạnh để bồi hoàn lại các protein có chức năng đông máu.

Có thể cần được truyền máu để giải quyết tình trạng thiếu máu.

Trong các trường hợp nhẹ, chỉ cần dùng corticoid và các thuốc hạ huyết áp (labetalol, hydralazine, nifedipine) là đủ.

Thường thiết yếu phải dùng dịch truyền tĩnh mạch.

Các trường hợp xuất huyết nặng ở gan đe dọa tính mạng có thể được điều trị bằng phương pháp thuyên tắc mạch máu (embolization).

BS. Ðồng Ngọc Khanh

Dùng cotrimoxazol dự phòng nhiễm trùng cơ hội

Mục đích dùng cotrimoxazol là để dự phòng các bệnh nhiễm trùng cơ hội như viêm não do Toxoplasma, phòng tiêu chảy, viêm đường hô hấp do một số vi khuẩn gây ra.

Đối với trẻ phơi nhiễm HIV

Chỉ định dự bộ phận cotrimoxazol cho trẻ từ tuần thứ 4-6 sau khi sinh và duy trì đến lúc loại trừ nhiễm HIV.

Đối với trẻ khẳng định nhiễm HIV

- Dưới 24 tháng tuổi, chỉ định điều trị dự phòng cotrimoxazol cho tất cả trẻ nhiễm HIV.

- Từ 24 tới dưới 60 tháng tuổi, dùng cotrimoxazol tại giai đoạn lâm sàng 2, 3 và 4 không phụ thuộc về tế bào TCD4 hoặc % TCD4 < 25% hoặc số lượng TCD4 nhỏ hơn hoặc bằng 750 tế bào/mm3 không phụ thuộc giai đoạn lâm sàng.

- Từ 60 tháng tuổi trở lên, có xét nghiệm TCD4 dùng cotrimoxazol giai đoạn lâm sàng 3,4 không phụ thuộc số lượng tế bào TCD4 hoặc TCD4 nhỏ hơn hoặc bằng 350 tế bào/mm3 không phụ thuộc giai đoạn lâm sàng. Nếu không xét nghiệm TCD4 dùng cotrimoxazol tại giai đoạn lâm sàng 2, 3, 4.

 Khám bệnh cho trẻ có HIV tại Bệnh viện đa khoa Đồng Nai. Ảnh: H.Y
Cách dùng

Cotrimoxazole là thuốc gồm hai thành phần: trimethoprim (TMP) và sulfamethoxazole (SMX). Liều điều trị dự bộ phận là 5mg/kg/ngày tính theo TMP, uống 1 lần trong ngày.

Ngừng điều trị dự bộ phận lúc trẻ đã được điều trị ARV và trong 6 tháng thường xuyên có số lượng tế bào CD4 trên 25% đối với trẻ từ 1-5 tuổi; và trên 200 tế bào đối với trẻ trên 5 tuổi. Tái điều trị dự  phongfkhi số lượng tế bào CD4 giảm đến tiêu chuẩn cần được điều trị dự bộ phận của lứa tuổi.

Khi dự bộ phận các nhiễm trùng cơ hội bằng cotrimoxazol trẻ có thể gặp các tác dụng phụ không nguyện vọng do thuốc gây ra như nôn, buồn nôn, phát ban diễn ra trong 1 - hai tuần đầu điều trị hoặc các tác dụng phụ nặng hơn như thiếu máu, giảm bạch cầu hạt, phát ban, ngộ độc gan... Vì vậy cần tư vấn cho người chăm sóc và trẻ vào các tác dụng phụ này, cách xử trí và cần tới khám tại các địa chỉ y tế lúc nghi ngờ có tác dụng phụ nặng.

Phát ban do cotrimoxazol và cách xử trí

- Mức độ 1 (nhẹ) với triệu chứng ban đỏ và mức độ 2 (trung bình) với triệu chứng ban sần lan tỏa, tróc vẩy khô: tiếp tục điều trị dự phòng bằng cotrimoxazol, theo dõi bệnh nhân chặt chẽ. Điều trị triệu chứng và kháng histamin.

- Ở mức độ 3 (nặng) với triệu chứng ban phỏng nước, loét niêm mạc và mức độ 4 (rất nặng) với các triệu chứng viêm da tróc vẩy, hội chứng Steven Johnson hoặc hồng ban đa dạng, bong da ướt: cần nhập viện điều trị hỗ trợ và ngừng vĩnh viễn dùng cotrimoxazole.  

  Bác sĩ Nguyễn Bích Ngọc

Những tai nạn hy hữu gặp ở trẻ em

Chúng ta đều biết trẻ nhỏ tuổi rất hay hiếu động, tò mò và tinh nghịch. Việc theo dõi trẻ khi chơi, sinh hoạt phải luôn cẩn thận, đề bộ phận những tai nạn đáng tiếc xảy ra cho trẻ. Tuy nhiên, có những trường Hợp tai nạn dở khóc dở cười gặp tại trẻ.

 Bỏng tay do nước sôi
1. Bị nhầm về nhiễm trùng tiểu

Bé gái T.B.N, 3 tuổi, nhà tại quận 1 TP.HCM, được mẹ đưa đi khám bệnh,

vì mẹ nghi bé nhiễm trùng tiểu. Hỏi người mẹ được biết, sau khi ăn cơm tối xong, bé ngồi bô, vừa ngồi được vài giây thì khóc than “đau đau”, tay sờ vào vùng kín. Mẹ bé tưởng con mình tiểu buốt đau làm bé khóc, sau đó lại cho ngồi bô để tiểu tiếp, thì bé nhất quyết không chịu ngồi vào bô. Bác sĩ thấy làm lạ vì hành động không ngồi về bô, sau khi khám và xét nghiệm nước tiểu, kết luận bé N. vẫn khỏe mạnh không có bị nhiễm trùng tiểu, bác sĩ kêu người mẹ lấy cái bô đến xem thử. Sau khi kiểm tra cái bô, hóa ra là bô nhựa, có 1 miếng nhựa nhỏ xíu tróc ra, miếng nhựa này nhọn nhô lên, khó thấy ví dụ không để ý, nên lúc ngồi vào, nó cọ về mặt sau đùi của bé làm cho bé đau, khóc, còn mẹ bé tưởng con mình đi tiểu đau.

2. Trượt chân té gãy xương

Bé trai T.ĐM. 4 tuổi, nhà tại quận 4, TP.HCM, nhập viện vì té do trượt chân. Theo mẹ bé cho biết, chị canh bé cẩn thận, luôn để sàn nhà khô. Trong lúc để bé vừa uống nước bằng ly và xem ti vi, người mẹ đi nấu cơm cách bé không xa. Bé rất nghịch, uống và phun nước ra sàn nhà. Do âm thanh ti vi, nên mẹ bé cũng không nghe thấy tiếng phun nước của con mình. Sau khi phun nước ra sàn, bé chạy nhảy và trượt vào vũng nước té đập mông và đầu xuống nền gạch. Kết quả đầu mông không sao, nhưng bị gãy xương tại ngón chân cái.

3. Bỏng hy hữu vì nước sôi

Mẹ của cháu N.L.T 4 tuổi, tạm trú tại quận Tân Bình, TP.HCM. Than thở rằng do ở nhà thuê, phòng rất nhỏ, nên đã rất sợ tai nạn bỏng xảy ra với cháu. Gia đình rào chắn hết chỗ nấu ăn, với những tấm gỗ chắn có chiều cao 80cm, tạo thành lô cốt không thể vào được. Sau lúc đun sôi nước bằng bình siêu tốc để dưới đất, cái bình này nằm an toàn trong rào chắn. Thường sau lúc đun sôi, người mẹ mở nắp bình siêu tốc ra để cho nước nguội. Chị nghĩ con mình không tới nghịch khu chắn. Nào ngờ, ít phút sau cháu T., ném trái banh nhỏ về bình nước vừa mới đun sôi đang mở nắp, làm cho nước sôi bắn vào đầu, tay, lưng, làm cháu bị bỏng độ II-III.

4. Vết thương vùng mặt do mảnh chai

Trong ngày rằm tháng giêng vừa qua, mẹ của cháu trai L.H.H 6 tuổi, nhà tại quận Tân Bình, TP.HCM, có bày mâm cúng tổ tiên, mâm cúng sau lúc để trên bàn thờ xong thì chuyển xuống cái bàn gần đó. Hai đứa con của chị lấy hai cái ly thủy tinh trong mâm cúng để chơi trò cụng ly, chiếc ly vỡ ra do cụng mạnh làm nhiều mảnh thủy tinh văng ra khiến em H. bị nhiều vết thương rách da trên mặt phải đến bệnh viện để khâu. Hầu hết trẻ mắc phải những tai nạn đều là do sự sơ ý hoặc một phút lơ là ở người lớn, cho dù có hy hữu đi chăng nữa, nếu như nhìn kỹ lại cũng do lỗi của chúng ta. Vì thế, biện pháp tốt nhất để phòng ngừa tai nạn cho trẻ chính là sự tiếp nhân thức, cảnh giác của người lớn trước các nguy cơ có thể gây ra tai nạn.

BS. MẠNH HÀ

Trẻ cao nhờ... biết ngủ đúng

Có một điều nhiều mẹ chưa biết, chiều cao của trẻ sẽ được phát triển tối ưu nếu ngủ đúng và đủ giấc. Dưới đây là một số điểm cha mẹ cần lưu ý để đảm bảo giấc ngủ của trẻ.1. Ngậm vú mẹ lúc ngủNhiều bà mẹ có thói quen để con mình ngậm vú mẹ khi đi ngủ. Cho bé ngủ theo cách này đã được các bác sĩ khuyến cáo là có hại tới sức khỏe của bé. Khi trẻ ngủ mà vẫn ngậm vú mẹ rất dễ dẫn tới việc mỗi lúc bé hít thở sẽ vô tình hút luôn cả sữa mẹ gây trở ngại cho việc tiêu hóa. Trẻ sẽ khó ngủ, hay quấy, thậm chí bị ngạt thở.

Bên cạnh đó, ngậm vú mẹ lúc ngủ còn có thể gây ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của răng và nướu.

2. Trẻ ngủ mang theo cảm giác lo sợĐể trẻ nhanh chóng đi ngủ, người lớn đôi lúc thường hay dọa trẻ rằng “Nếu con không ngủ thì… sẽ đến”. Những câu nói như vậy sẽ khiến trẻ sợ hãi và ngoan ngoãn nghe lời. Tuy nhiên, sự thật là lúc bị dọa như vậy, hệ thần kinh của trẻ sẽ bị kích thích mạnh mẽ. Trẻ sẽ không thể ngủ sâu giấc và đôi khi hay gặp ác mộng, ngủ hay bị giật mình và chất lượng giấc ngủ không tốt.

3. Cho trẻ ngủ muộnMột số gia đình thường có thói quen ngủ muộn và thói quen này đôi lúc ảnh hưởng đến trẻ. Tuy nhiên, các ông bố bà mẹ thường không biết rằng hormone nâng cao trưởng của trẻ tiết ra nhiều nhất từ khoảng 22 đến 24 giờ đêm. Chính vì vậy, nếu trẻ duy trì thói quen đi ngủ muộn thì đồng nghĩa với việc các hormone nâng cao trưởng của trẻ sẽ tiết ra ít hơn và trẻ sẽ chậm phát triển chiều cao…Để giúp trẻ phát triển toàn diện, người lớn cần duy trì cho trẻ thói quen đi ngủ sớm và ngủ đủ giấc.4. Cho trẻ ngủ trong trạng thái đung đưaMỗi lúc trẻ quấy khóc khi ngủ, người lớn thường bế trẻ lên, đung đưa hoặc cho trẻ nằm về nôi để lắc qua lắc lại. Trong thực tế, phương pháp này có thể sẽ khiến trẻ ngủ ngoan nhưng nó lại tiềm ẩn những hiểm nguy khác. Các chuyên gia sức khỏe đã cho biết rằng, não tại trẻ chưa được phát triển toàn diện, chính vì vậy lúc người to bế và lắc thường xuyên tương tự sẽ có thể dẫn tới tình trạng xuất huyết não, tại những trường hợp nặng có thể gây tê liệt chân tay, thậm chí là tử vong.5. Trẻ nằm sấp lúc ngủTư thế ngủ của trẻ đóng vai trò rất quan trọng, ảnh hưởng tới sự phát triển của trẻ sau này. Để trẻ nằm sấp lúc ngủ sẽ khiến trẻ dễ bị ngạt. Nhiều trường hợp trẻ tử vong khi ngủ trong tư thế nằm sấp. Các chuyên gia khoa học gọi đây là cái chết đột ngột. Chính vì vậy, khi để cho trẻ ngủ, người to cần để trẻ nằm thẳng và bảo đảm rằng mũi cũng như miệng của trẻ không có bất kỳ vật cản nào khác.6. Ngủ chung với trẻNgủ chung với trẻ sẽ dễn dẫn đến tâm lý phụ thuộc ở trẻ nhỏ. Hơn nữa, lúc người to ngủ cùng giường với trẻ nhỏ sẽ khiến trẻ khó hít thở được không khí trong lành. Nhiều bà mẹ còn có thói quen để con nằm trên cánh tay của mình khi ngủ, điều này có thể sẽ khiến trẻ cảm thấy không tha hồ và giấc ngủ không được sâu.7. Để đèn sáng khi ngủĐể đèn sáng khi ngủ sẽ hạn chế hormone nâng cao trưởng tại trẻ nhỏ.

Theo Eva