This is default featured slide 1 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 2 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 3 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 4 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 5 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Sunday, December 31, 2000

Kiểm soát tốt huyết áp:Giảm đáng kể các biến chứng tim mạch

Tăng huyết áp (THA) là bệnh mạn tính nên cần theo dõi đều, điều trị đúng và đủ một cách liên tục (lâu dài, suốt đời). THA bản thân nó lại là một nhân tố nguy cơ thiết yếu nhất của các bệnh lý tim mạch như bệnh động mạch vành, nhồi máu cơ tim, bệnh lý mạch máu não, bệnh động mạch ngoại biên, phình tách động mạch chủ,... nên điều trị THA ngoài việc giúp đưa con số huyết áp vào mức thông thường còn làm giảm được nguy cơ bị các biến chứng nêu trên.

Người bệnh tăng huyết áp cần kiểm tra huyết áp thường xuyên.

Huyết áp chỉ tiêu cần đạt là dưới 140/90mmHg, nếu như bệnh nhân bị tiểu đường thì con số huyết áp tiêu chí được khuyến cáo bởi Hiệp hội Tim mạch châu u (ESC) năm 2013 là dưới 140/85mmHg, người có tuổi có mức huyết áp tâm thu ≥ 160 mmHg nên được điều chỉnh về mức khoảng 140-150mmHg 1 cách từ từ, tránh thay đổi đột ngột. Tuy nhiên, căn cứ theo từng bệnh cảnh và cơ địa bệnh nhân cụ thể, người thầy thuốc sẽ đưa ra phương thức điều trị hợp lý nhất cho người bệnh.

Các biện pháp trảo đổi lối sống: Đây là điều trị không thể thiếu mà mọi bệnh nhân cần được thực hiện để đạt được huyết áp mục tiêu và giảm số thuốc cần dùng. Các biện pháp đó là:

- Chế độ ăn hợp lý, đảm bảo đủ kali và các yếu tố vi lượng. Ăn nhạt: Dưới 5-6g muối/ngày; Tăng cường rau xanh, hoa quả tươi; Hạn chế thức ăn có nhiều cholesterol và acid béo no.

- Tích cực giảm cân (nếu quá cân), duy trì cân nặng lý tưởng - Cố gắng duy trì vòng bụng dưới 90cm tại nam và dưới 80cm tại nữ.

- Hạn chế uống rượu, bia.

- Ngừng hoàn toàn việc hút thuốc lá hoặc thuốc lào.

- Tăng cường hoạt động thể lực tại mức thích hợp: tập thể dục, đi bộ nhẹ nhàng hoặc vận động tại mức độ vừa phải, đều đặn khoảng 30 - 60 phút mỗi ngày.

- Tránh lo âu, căng thẳng thần kinh; cần thư giãn, nghỉ ngơi hợp lý.

- Tránh bị lạnh đột ngột.

Cần luyện tập với mức độ vừa phải.

Điều trị THA bằng thuốc: Có phần lớn loại thuốc không như nhau có tác dụng điều trị giúp hạ huyết áp. Mỗi thuốc này có những ưu nhược điểm riêng và phù hợp với từng đối tượng người bệnh khác nhau. Người bệnh cần được khám tổng thể và đo huyết áp tại các cửa hàng y tế để được bác sĩ đánh mức chi phí tổng thể các nhân tố nguy cơ, áp dụng phác đồ điều trị phù hợp và giải đáp vào đánh tráo lối sống, cách dùng thuốc và các tác dụng phụ của thuốc hạ áp.

Các nhóm thuốc chính sử dụng để điều trị THA gồm có:

- Thuốc ức chế men chuyển

- Thuốc ức chế thụ thể AT1 của Angiotensin II

- Thuốc lợi tiểu

- Thuốc chẹn kênh canxi

- Thuốc chẹn beta giao cảm

Căn cứ về mức độ THA, về cơ địa, tuổi và các bệnh phối hợp khác trên từng người bệnh mà người thầy thuốc sẽ quyết định lựa chọn loại thuốc nào (đơn trị liệu hay phối hợp thuốc hạ áp) để có thể đạt hiệu quả điều trị cao nhất và hạn chế tối đa các tác dụng không mong muốn của thuốc.

Ngoài việc theo dõi thường xuyên con số huyết áp, người bệnh cần được định kỳ kiểm tra một số xét nghiệm như: phân tích nước tiểu; xét nghiệm sinh hóa máu; xét nghiệm vào huyết học... nhằm đánh giá tổng thể và chi tiết hơn về THA.

Các biện pháp tích cực trảo đổi lối sống chính là những biện pháp để bộ phận THA ở người trưởng thành. Nâng cao tiếp nhân thức và hiểu biết về bệnh THA, biến chứng của THA và các nhân tố nguy cơ tim mạch khác... sẽ giúp mỗi chúng ta bộ phận chống và điều trị thành công THA.

Chương trình PCTHA - Viện Tim mạch Quốc gia

Chớ coi thường cao huyết áp tuổi trung niênChớ coi thường cao huyết áp tuổi trung niênPhát hiện protein gây nâng cao huyết ápPhát hiện protein gây nâng cao huyết ápNhững lưu ý khi dùng huyết áp kế điện tửNhững lưu ý lúc sử dụng huyết áp kế điện tử

 

Tuyệt chiêu ăn lẩu không lo bị nóng trong

Những fan cuồng của món lẩu có thể thỏa thích ăn uống mà không lo bị nóng nhờ mẹo nhỏ như uống sinh tố trước bữa ăn, chọn nhiều rau, đậu phụ...

 

 

WHO:Chủng Ebola ở Congo khác với virút gây dịch Ebola tại Tây PhiWHO:Chủng Ebola ở Congo khác với virút gây dịch Ebola ở Tây PhiHoa hậu châu Á - Thái Bình Dương bị truất ngôi yêu cầu được xin lỗiHoa hậu châu Á - Thái Bình Dương bị truất ngôi đề nghị được xin lỗiCặp đôi gần cưới gặp nạn trong vụ tai nạn ô tô tại Lào CaiCặp đôi sắp cưới gặp nạn trong vụ tai nạn ô tô tại Lào Cai

 

(Theo ione.net)

Rối loạn ngưng thở khi ngủ

Việc điều trị hiệu quả và kịp thời sẽ giúp ngăn ngừa bệnh tim mạch cũng như tiết kiệm biến chứng tim mạch.

Giữa SDB và bệnh tim mạch (Cardiovascular Disease - CVD) có liên quan với nhau. SDB được xác định là nguyên do của tăng huyết áp, suy tim sung huyết (Congestive Heart Failure - CHF), đột qụy và bệnh động mạch vành (Coronary Artery Disease - CAD). Thêm về đó, những nghiên cứu sắp đây cho thấy điều trị SDB có thể làm giảm huyết áp và cố gắng chức năng tim mạch.

Bệnh lý tim mạch thường là những bệnh lý mãn tính, gây tàn phế và có nguy cơ tử vong cao, việc điều trị dựa trên việc kiểm soát các nhân tố nguy cơ. Rối loạn thở khi ngủ thường kết hợp với các chứng bệnh tim mạch, từ nâng cao huyết áp đến suy tim, và bác sĩ càng ngày Quan tâm tới điều trị rối loạn thở khi ngủ.

Rối loạn ngưng thở khi ngủ là gì?

Rối loạn ngưng thở lúc ngủ (SDB) là những rối loạn liên quan đến hệ hô hấp khi ngủ, bao gồm ngưng thở tắc nghẽn (Obstructive Sleep Apnea - OSA), ngưng thở trung ương (Central Sleep Apnea - CSA) và những dạng ngưng thở khác. Ngưng thở được định nghĩa là lúc không có luồng hơi thở trong ít nhất 10 giây. Dạng rối loạn thở lúc ngủ phổ biến đặc biệt ngưng thở tắc nghẽn.

Trong ngưng thở tắc nghẽn khi ngủ, đường thở trên xẹp lại làm tắc nghẽn 1 phần hoặc hoàn toàn đường thở khi ngủ đồng thời có hô hấp gắng sức. Giảm thở (giảm không khí) tương tự như ngưng thở, nhưng thay vì hoàn toàn không có luồng hơi thở, trong giảm thở thì luồng hơi thở bị giảm (thở chậm, thở nông) trong vòng 10 giây hoặc hơn, kèm theo hiện tượng giảm bão hòa oxy ít nhất 4%.

Ngưng thở trung ương là khi không có luồng hơi thở và cũng không có hô hấp gắng sức. Khi vừa có ngưng thở tắc nghẽn, vừa có ngưng thở trung ương thì thường được gọi là ngưng thở hỗn hợp.

Một dạng rối loạn thở nhất là phổ biến tại bệnh nhân tim mạch là nhịp thở Cheyne - Stokes (Cheyne-Stokes respiration - CSR). Đặc điểm của nhịp thở này là ngưng thở trung ương hoặc giảm thở, sau đó là nhịp thở sâu và nhanh, luân phiên nhau theo chu kỳ. CSR dẫn đến giảm bão hòa oxy, tăng hoạt động thần kinh giao cảm, loạn nhịp tim.

Triệu chứng và hiện tượng ngưng thở tắc nghẽn

- Ngáy.

- Thở đứt quãng lúc ngủ.

- Buồn ngủ vào ban ngày.

- Nhức đầu vào buổi sáng.

- Tăng huyết áp.

Ngưng thở tắc nghẽn lúc ngủ và bệnh tim mạch

Ngưng thở và giảm thở dẫn đến giảm bão hòa oxy và tăng carbon dioxide trong máu. Khi lượng carbon dioxide trong máu tăng đến một mức nhất định, cơ thể sẽ nỗ lự tìm cách để thở, gây nên hiện tượng vi thức giấc và thở thông thường trở lại. Trong lúc ngưng thở, hệ thần kinh giao cảm gia tăng, dẫn tới loạn nhịp tim và làm nâng cao huyết áp. Ngưng thở được xem là nguyên do làm tăng huyết áp, liên quan tới suy tim sung huyết (CHF), bệnh động mạch vành (CAD) và rung nhĩ (Atrial Fibrillation - AF). Hậu quả huyết động lực học của OSA bao gồm nâng cao huyết áp, tăng áp động mạch phổi.

Rối loạn ngưng thở khi ngủ và nâng cao huyết áp:

80% bệnh nhân tăng huyết áp kháng trị bị rối loạn thở khi ngủ.

SDB gây ra áp lực tim mạch kéo dài, dẫn tới nâng cao huyết áp suốt ngày và đêm.

Người có OSA từ nhẹ đến trung bình có nguy cơ tăng huyết áp cao gấp đôi, người có OSA nặng thì nguy cơ nâng cao huyết áp cao gấp 3 người không bị OSA.

Điều trị hiệu quả SDB đã được chứng minh làm giảm huyết áp rõ rệt trong khi ngủ cũng như lúc thức giấc.

Rối loạn ngưng thở và suy tim sung huyết (CHF):

73% bệnh nhân suy tim sung huyết có rối loạn thở lúc ngủ

SDB phổ biến tại bệnh nhân suy tim vừa và nặng, làm bệnh tim mạch tiến triển, ảnh hưởng xấu đến kết quả điều trị và cả làm tăng tỉ lệ tử vong.

Các nghiên cứu đã chứng minh điều trị SDB hiệu quả sẽ giúp nỗ lự chức năng tim (phân suất tống máu thất trái, LVEF-left ventricular ejection fraction) và làm phì đại tim (kích thước cuối tâm thu thất trái, LVSED-left ventricular end-systolic dimension).

Rối loạn ngưng thở và bệnh động mạch vành (CAD):

Khoảng 30% bệnh nhân động mạch vành bị rối loạn thở lúc ngủ.

Điều trị ngưng thở tắc nghẽn tại bệnh nhân động mạch vành giúp làm giảm xảy ra các biến cố tim mạch mới (ví dụ tử vong, nhập viện, tái thông mạch), và làm nâng cao khoảng thời gian giữa các biến cố đó.

Rối loạn ngưng thở và rung nhĩ (AF):

Ngưng thở tắc nghẽn ảnh hưởng đến khoảng 50% số bệnh nhân rung nhĩ.

Bệnh nhân rung nhĩ được điều trị CPAP hiệu quả sẽ có nguy cơ rung nhĩ tái phát thấp hơn bệnh nhân không được điều trị OSA.

PGS.TS. NGUYỄN HOÀI NAM

Tăng huyết áp: cảnh giác với đột quỵTăng huyết áp: cảnh giác với đột quỵTrinh sát hình sự đặc nhiệm bắt gọn vụ tàng trữ trái phép ma túyTrinh sát hình sự đặc nhiệm bắt gọn vụ tàng trữ trái phép ma túyVắc xin Ebola sẽ sẵn sàng về tháng 11 tớiVắc xin Ebola sẽ sẵn sàng về tháng 11 tới

Kháng sinh có clarithromycin gây nguy cơ tử vong

Viện Nghiên cứu quốc gia Serum tại Copenhagen (Đan Mạch) vừa cho biết, việc dùng kháng sinh clarithromicyn có thể dẫn đến nguy cơ tử vong cao hơn 76% so với việc dùng penicillin V. Các nhà nghiên cứu đã phân tích số liệu từ hơn 5 triệu đợt điều trị kháng sinh tại bệnh nhân độ tuổi từ 40 - 74 chỉ cần khoảng từ 1997 - 2011. Trong số các bệnh nhân, hơn 160.000 người sử dụng clarithromycin, 590.000 người dùng roxithromycin và 4,4 triệu người dùng penicillin V.

Kết quả cho thấy sự khác biệt vào nguy cơ tuyệt đối là 37 trường hợp tử vong vì bệnh tim trên 1 triệu đợt điều trị bằng clarithromycin và nguy cơ này cũng chấm dứt lúc đợt điều trị kết thúc.

Các nhà khoa học cho biết clarithromycin và roxithromycin là kháng sinh thuộc nhóm macrolid có tác động tới hoạt động điện của cơ tim và được cho là làm tăng nguy cơ gây ra các khiếu nại nhịp tim, có thể gây tử vong.

Minh Khuê (Theo The BMJ, 9/2014)

Tạo van tim cho trẻ nhỏ từ tế bào daTạo van tim cho trẻ nhỏ từ tế bào daGiảm thời gian ngồi - bí quyết kéo dài tuổi thọGiảm thời gian ngồi - bí quyết kéo dài tuổi thọStress - Nguyên nhân cần thiết gây bệnh đái tháo đường týp 2Stress - Nguyên nhân nhu yếu gây bệnh đái tháo đường týp 2

 

Tự kỷ

Hội chứng tự kỷ tuy đã không còn xa lạ nhưng có thể nó vẫn chưa thực sự sắp gũi với nhiều ông bố bà mẹ. Hậu quả là còn nhiều trẻ tự kỷ bị chẩn đoán muộn hoặc không được can thiệp rất tốt khiến cho trẻ khó hòa nhập cộng đồng.

Ở nước ta hiện chưa có số liệu thống kê nhưng trên toàn cầu về thập kỷ 80 của thế kỷ XX là một – 2 trẻ tự kỷ/10.000 trẻ, thập kỷ 90 là 3- 4 /10.000, năm 2001 – 2002 là 1/165, năm 2008 – 2009 là 1/110, riêng ở Mỹ cứ 50 gia đình thì có một gia đình có con bị tự kỷ. Giải thích về sự gia nâng cao này ThS. Quách Thúy Minh, Trưởng khoa Tâm bệnh Bệnh viện Nhi Trung ương cho rằng đó là do tiếp nhân thức của xã hội về rối loạn tự kỷ đã tăng, mặt khác tiêu chuẩn để đánh giá, chẩn đoán tự kỷ đã được mở rộng hơn. Nếu trước đây những trẻ bị tự kỷ nhẹ thường bị bỏ sót thì nay đã được chẩn đoán.

Về nguyên do gây ra hội chứng tự kỷ là do biến đổi cấu trúc não. Có rất nhiều yếu tố gây ra sự biến đổi này như bất thường gen, các chấn thương xảy ra trong quy trình người mẹ mang thai, sinh nở… Ý kiến cho rằng con tự kỷ là do bố mẹ ít quan tâm, trò chuyện là sai. Đây chỉ là một nhân tố xúc tiến làm cho hội chứng này phát sinh, phát triển.

 Giờ sinh hoạt tập thể tại 1 lớp học dành cho trẻ tự kỷ.
Nhiều trẻ phát hiện muộn, can thiệp chưa tốt

Hiện nay các thông tin liên quan tới tự kỷ có khá nhiều trên mạng internet, các website, các câu lạc bộ, các địa chỉ chẩn đoán, tư vấn, can thiệp cho trẻ tự kỷ cũng không phải hiếm hoi. Thế nhưng vẫn còn khá nhiều người không cho con em mình đi khám sớm, hoặc điều trị đến nơi tới chốn.

Trường hợp của cháu Nguyễn Thanh N., 31 tháng tuổi, ở Lạng Sơn hiện đang điều trị ở Khoa Tâm bệnh Bệnh viện Nhi Trung ương là một ví dụ. Hiện cháu không nói được, giao tiếp kém, không nhìn vào mắt người đối thoại, khuôn mặt ít biểu lộ tình cảm. Khi sinh hoạt lớp cháu không tham dự nghe cô giáo nói, không tham dự về các trò chơi tập thể của lớp, chỉ ngồi và nhìn đi đâu. Theo các bác sĩ, cháu N. bị tự kỷ tại mức độ tương đối nặng, đòi hỏi sự can thiệp tích cực chỉ cần khoảng khá lâu.

Mẹ cháu, chị Nguyễn Thị L., 38 tuổi, 1 dược sĩ làm việc ở Trung tâm y tế dự bộ phận TP. Lạng Sơn cho biết: “ Cháu là con gái thứ 2 trong gia đình, chị cháu hiện đang học lớp 7 và hoàn toàn khỏe mạnh, bình thường. Trong quá trình mang thai và sinh nở cháu đều bình thường, cháu sinh ra nặng 3,7kg. Hàng ngày cháu tại với người giúp việc, tôi đi làm cả ngày tối mới về. Cũng do bận công việc nên tôi không có rất nhiều thời gian chơi với cháu. Khi được 12 – 13 tháng cháu cũng bập bẹ như những trẻ khác. Khi được 17 – 18 tháng trong một lần đi khám họng ở bác sĩ nhi của 1 bộ phận khám tư, tôi có nói với bác sĩ về việc chậm nói của cháu nhưng bác sĩ bảo không sao, cháu hoàn toàn bình thường, chắc chỉ chậm nói tí thôi. Sau đó tôi cũng thấy cháu có ít nhiều tiến bộ, cháu tỏ ra biết hơn một chút nhưng vẫn chưa nói được. Mãi tới sắp đây qua tìm hiểu trên mạng internet tôi mới cho cháu xuống đây khám và điều trị vì ở TP.Lạng Sơn không có giáo viên hay trung tâm nào dạy cho trẻ tự kỷ.”

Cháu trai H., 31 tháng tuổi, tại Quảng Ninh, là một bé trai bụ bẫm, khỏe mạnh, nét mặt khôi ngô, tuấn tú, nước da trắng hồng, đôi mắt đen láy. Cháu là con trai đầu, là cháu đích tôn trong nhà. Chị M., 28 tuổi, mẹ cháu tâm sự: “Khi cháu được hai tuổi, em thấy cháu vẫn chưa nói được, gọi thì không quay lại, cháu tỏ ra thờ ơ với mọi người. Em có nói với bà nội cháu, là hiệu trưởng một trường mầm non của tỉnh đưa cháu đi khám nhưng bà cứ khẳng định cháu hoàn toàn bình thường chỉ chậm nói thôi. Bà bảo nếu em cứ quyết tâm cho con đi khám chỉ để khắc phục vấn đề tư tưởng. Sau này có bận đi khám em đưa cả bà nội cùng đi khi đó bà mới tin. Con có làm sao người mẹ nào chả buồn lòng, đây cháu lại mắc chứng nan y này. Đi đâu, ai hỏi có dám nói con bị tự kỷ đâu. Xã hội hầu hết vẫn miệt thị, chê bai. Em chỉ dám nói là con bị rối loạn chức năng ngôn ngữ. Em mong cả gia đình cùng với em tích cực chữa trị cho cháu, mong mọi người ai có thông tin gì mới vào tự kỷ cùng chia sẻ.”

Trường hợp của cháu trai Q.A, tuy đã 10 tuổi nhưng vẫn không học xong lớp 1, mặc dù cháu phát triển hoàn toàn bình thường, cháu vẫn nói được, cháu đang được điều trị từ vài tháng nay ở Trung tâm Lucky Duck, xóm Ké, thôn 7, Phú Cát, Quốc Oai, Hà Nội do TS. Trần Thị Thu Hà, nguyên Trưởng khoa Phục hồi chức năng Bệnh viện Nhi Trung ương làm giám đốc. Trong giờ chơi xếp hình cùng bạn đọc trong lớp Q.A xếp đẹp và khéo léo nhất, trí tưởng tượng của cháu khá phong phú. Và hầu hết trường hợp, có cháu đang nói tự nhiên không nói được nữa, đi khám mới phát hiện bị tự kỷ. Có cháu lại được phát hiện sớm nhưng gia đình chủ quan bỏ điều trị đến khi nặng hơn mới quay lại chữa tiếp khiến việc điều trị trở thành khó khăn và kéo dài hơn…

Can thiệp thế nào?

ThS. Quách Thúy Minh cho biết tự kỷ là 1 rối loạn mà hiện chưa có thuốc điều trị đặc hiệu duy nhất thuốc điều trị triệu chứng. Khi trẻ bị tự kỷ thường có các bệnh lý kèm theo như tăng động, động kinh, rối loạn giấc ngủ, rối loạn lo âu, lo âu ám ảnh, ám ảnh sợ… Các cháu tự kỷ thường sống thu mình, mặc cảm, khó hòa nhập xã hội. Hiện tự kỷ chưa chữa khỏi được. Chỉ có thể giúp trẻ hòa nhập xã hội. Độ tuổi can thiệp tích cực đặc biệt từ hai -3 tuổi, sau 3 tuổi việc can thiệp càng ngày phát triển thành khó khăn, tỉ lệ thuận với tuổi của trẻ. Kết quả điều trị phụ thuộc về mức độ nặng của tự kỷ, khả năng trí tuệ trẻ, phương pháp cũng như quy trình dạy dỗ.

TS. Trần Thị Thu Hà giới thiệu vào Chương trình đặc biệt Smart kid – Bé thông minh. Theo TS. Hà trẻ tự kỷ không những được can thiệp để có thể nói được, hòa nhập được với xã hội mà còn phải phát triển trí tuệ mà Chương trình Bé thông minh chính là một công cụ hữu hiệu giúp các bé trong khiếu nại này.

Hiện nay tuy đã có những phương pháp chữa trị cho trẻ tự kỷ như ôxy cao áp, châm cứu, lọc các kim loại nặng, chính sách ăn… nhưng theo các chuyên gia nước ngoài thì liệu pháp hành vi vận dụng vẫn là phương pháp can thiệp có hiệu quả nhất, có chứng cứ khoa học rõ ràng nhất. Những phương pháp khác chỉ là xu thế đang được các nhà khoa học tìm kiếm. Hiện Khoa Tâm bệnh Bệnh viện Nhi Trung ương áp dụng liệu pháp này, nhất là chú trọng phương pháp dạy trẻ giao tiếp bằng tranh.

Phương pháp dạy trẻ tự kỷ chủ yếu bằng tâm lý và giáo dục. Các bậc cha mẹ cần được học hỏi cách dạy trẻ từ các nhà chuyên môn, sau đó cùng phối hợp tích cực dạy con ở nhà mà không nên có tâm lý mong đợi ai thay mình dạy con được. Cần kiên trì dạy trẻ mọi nơi mọi lúc, nhằm giúp trẻ có thể tự lập dần dần và hòa nhập về cuộc sống sinh hoạt hàng ngày.

Để chữa trị được cho trẻ tự kỷ không chỉ riêng ngành y tế mà là quy trình phối kết hợp của 5 chuyên lĩnh vực khác nhau: bác sĩ nhi khoa, cán bộ tâm lý, cán bộ phục hồi chức năng, giáo viên mầm non và cán bộ xã hội.

Vẫn còn nhiều bác sĩ do không cập nhật được thông tin vào hội chứng tự kỷ nên không chẩn đoán được hoặc bỏ sót, hoặc nhầm giữa tự kỷ với tăng động và các bệnh lý khác.

Hiện nay khu vực phía Bắc, không phải tỉnh nào cũng có địa chỉ cho trẻ tự kỷ, vì vậy nhiều trẻ phải đi trị liệu tại xa, tốn kém nhiều, cha mẹ phải bỏ việc để đưa con đi chữa. Xã hội còn thiếu các trường lớp, các địa chỉ cho trẻ tự kỷ. Vì vậy các bậc phụ huynh cũng rất mong Nhà nước để ý hơn nữa trong việc đào tạo thêm nhiều giáo viên giáo dục chuyên biệt, mở thêm các lớp đặc biệt trong trường bình thường để các cháu tự kỷ có thể theo học ngay ở địa phương mình.

Mai Hương

Giải pháp phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em

Thiên chức của người phụ nữ là được làm vợ, làm mẹ. Truyền thống của các bà mẹ Việt Nam đều nguyện vọng nuôi con bằng chính dòng sữa của mình, đó là 1 tập quán rất tốt và đúng khoa học. Trong những năm qua, nhiều thông tin quảng cáo vào các chất bổ sung về sữa làm cho trẻ phát triển, thông minh cùng với nhận thức chưa đúng của một số phụ nữ trẻ, nhiều gia đình có điều kiện đã coi sữa công thức có thể thay thế được sữa mẹ. Việc sử dụng sữa công thức đã làm cho trẻ từ chối sữa mẹ, khi trẻ đã quen các bà mẹ phải mua cho con, dù mức chi phí sữa không hề rẻ, nhất là thời kỳ bão mức giá như hiện nay. Nhiều bà mẹ than phiền và thực sự khó khăn lúc trẻ ốm, trẻ không chịu ăn sữa công thức, trong khi đó sữa mẹ lại không có do việc lạm dụng sữa ngoài. Đồng thời các bà mẹ cũng than phiền đã đánh tráo nhiều loại sữa mà tình trạng dinh dưỡng của con không được cải thiện. Sự hy vọng về sữa theo các thông tin PR đã trở nên sự thất vọng cho các bà mẹ. Các nhà dinh dưỡng khuyên các bà mẹ không có thực phẩm, thức ăn nào thay thế được sữa mẹ vì vậy duy trì và bảo về nguồn sữa mẹ là rất nhu yếu và quan trọng.

Vì sao sữa mẹ là thức ăn tốt nhất cho trẻ em?

Khi cai sữa cho trẻ cần chú ý:

Không cai sữa quá sớm, lúc chưa đủ thức ăn thay thế hoàn toàn sữa mẹ.

Không nên cai sữa về mùa hè nóng nực, trẻ kém ăn.

Không nên cai sữa đột ngột dễ gây sang chấn tinh thần làm trẻ quấy khóc, biếng ăn.

Không cai sữa lúc trẻ bị ốm, nhất là khi bị tiêu chảy vì thức ăn thay thế trẻ chưa thích nghi được càng làm rối loạn tiêu hoá, dễ gây hậu quả suy dinh dưỡng.

Sau khi cai sữa, cần có các chính sách ăn thay thế bảo đảm đủ chất cho trẻ, nhất là chất đạm (thịt, cá, trứng, sữa, đậu đỗ...), chất béo (dầu, mỡ) và các loại rau, quả...

Sữa mẹ là thức ăn hoàn chỉnh nhất, phù hợp nhất đối với trẻ, vì trong sữa mẹ có đủ năng lượng và chất dinh dưỡng cần phải có như đạm, đường, mỡ, vitamin và muối khoáng với tỷ lệ thích hợp cho sự hấp thụ và phát triển cơ thể trẻ.  Bú mẹ, trẻ sẽ lớn nhanh, phòng được suy dinh dưỡng.

Sữa mẹ chứa nhiều chất kháng khuẩn, nâng cao cường sức đề kháng cho trẻ, chống các bệnh đường ruột và bệnh nhiễm khuẩn. Trong sữa mẹ có những nhân tố bảo vệ cơ thể trẻ mà không 1 thức ăn nào có thể thay thế được. Do tác dụng kháng khuẩn của sữa mẹ nên trẻ được bú sữa mẹ sẽ ít mắc bệnh.

Trẻ bú mẹ ít bị dị ứng, eczema như ăn sữa bò.

Cho con bú sữa mẹ sẽ thuận lợi và kinh tế vì không phụ thuộc về giờ giấc, không cần phải đun nấu, dụng cụ pha chế. Trẻ bú sữa mẹ sẽ kinh tế hơn nhiều vì sữa mẹ không mất tiền mua. Khi người mẹ ăn uống đầy đủ, tinh thần thoả thích sẽ có đủ sữa cho con bú.

Nuôi con bằng sữa mẹ có điều kiện gắn bó mẹ con, người mẹ có không ít thời gian sắp gũi tự nhiên, đó là nhân tố tâm lý nhu yếu giúp cho việc phát triển hài hoà của đứa trẻ.

Cho con bú góp phần hạn chế sinh đẻ và giảm tỷ lệ ung thư vú.

Cách cho con bú

Nhiều bà mẹ sau lúc sinh chỉ thường cho con bú lúc căng sữa, người ta thường quen gọi là xuống sữa, như vậy là không đúng, càng làm sữa xuống chậm và dễ bị mất sữa. Tốt nhất, ngay sau lúc sinh trong vòng nửa giờ đầu người mẹ nên cho trẻ bú. Bú càng sớm càng tốt. Vì sữa mẹ tiết ra theo phản xạ, bú sớm có tác dụng kích thích bài tiết sữa sớm. Trẻ được bú sữa non sẽ phòng bệnh được tốt. Trẻ bú có tác dụng co hồi tử cung và cầm máu cho người mẹ sau đẻ.

Số lần cho trẻ bú không gò bó theo giờ giấc mà tuỳ thuộc vào yêu cầu của trẻ. Ban đêm vẫn có thể cho trẻ bú ví dụ trẻ khóc đòi ăn. Ở những bà mẹ ít sữa, nên cho trẻ bú nhiều để kích thích bài tiết sữa tốt hơn.

Khi cho trẻ bú, người mẹ ở tư thế thoải mái, có thể nằm hoặc ngồi cho bú, để toàn thân trẻ sát vào người mẹ: miệng trẻ ngậm sâu vào quầng đen bao quanh núm vú để động tác bú được rất tốt hơn. Thời gian cho bú tuỳ theo đứa trẻ. Cho trẻ bú đến lúc trẻ no, tự rời vú mẹ. Sau khi bú xong 1 bên, nếu như trẻ chưa đủ no thì chuyển sang vú bên kia.

Cho trẻ bú sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu. Khi trẻ bị bệnh, ngay cả lúc trẻ bị tiêu chảy, vẫn tiếp diễn cho trẻ bú. Trẻ đẻ non yếu không bú mẹ được, hoặc trường hợp mẹ bị ốm nặng, bị mắc 1 số bệnh không cho trẻ bú được, cần vắt sữa cho trẻ ăn bằng cốc.

Nên cho trẻ bú kéo dài 24 tháng hoặc có thể lâu hơn, không cai sữa cho trẻ trước 12 tháng. Khi trẻ 6 tháng tuổi cần kết hợp cho ăn thức ăn bổ xung theo nguyên tắc từ lỏng tới đặc, từ ít tới nhiều.

 Người mẹ cho con bú cần ăn uống đủ chất.
Bảo vệ nguồn sữa mẹ

Muốn có sữa cho con bú thì người mẹ ngay trong thời kỳ có thai cần được ăn uống đầy đủ các chất dinh dưỡng, có chính sách nghỉ ngơi, lao động hợp lý, tinh thần thoải mái, giúp người mẹ nâng cao cân rất tốt (10-12 kg), đó là nguồn dự trữ mỡ để sản xuất sữa sau lúc sinh.

Khi cho con bú, điều đầu tiên cần phải để ý là người mẹ cần phải ăn đủ, uống đủ, ngủ đủ giấc. Khẩu phần ăn cần cao hơn mức bình thường. Hàng ngày ăn thêm vài bát cơm, một chút thịt, cá, trứng hoặc một ít rau đậu. Nên ăn thêm quả chín để có đủ vitamin. Các món ăn cổ truyền như cháo chân giò gạo nếp, ý dĩ hoặc vừng rang muối giã nhỏ ăn với xôi có tác dụng kích thích bài tiết sữa. Nên hạn chế các thức ăn gia vị như ớt, hành, tỏi vì nó qua sữa gây mùi khó chịu, trẻ dễ bỏ bú.

Khi cho con bú, nên hạn chế sử dụng thuốc vì một số thuốc có thể qua sữa gây ngộ độc cho trẻ và làm giảm tiết sữa.

Người mẹ cho con bú nên uống nhiều nước đặc biệt cháo, nước quả, sữa... (mỗi ngày khoảng 1,5 – hai lít).

Vì sữa mẹ được tiết theo cơ chế phản xạ, do vậy tinh thần của người mẹ phải thoải mái, tự tin tránh những căng thẳng, buồn phiền, lo âu, mất ngủ. Chế độ lao động nghỉ ngơi sau khi sinh đẻ có ảnh hưởng tới bài tiết sữa.

Để phòng chống suy dinh dưỡng và bộ phận chống bệnh cho trẻ, các bà mẹ cần thực hiện nuôi con bằng sữa mẹ.   

BS.Nguyễn Văn Tiến

Vận động sau sinh nên thế nào?

Sau đẻ, nhiều phụ nữ đối diện với những biến đổi cơ thể: mập hơn, cơ bắp hình như nhão hơn, có hiện tượng các vết sắc tố trên bụng… Có nhiều phương án để lấy lại vóc dáng như trước khi có thai và phòng ngừa những biến cố của thời kỳ sau đẻ, trong đó vận động thể chất có vai trò quan trọng.

Vận động sau đẻ có lợi ích gì?

Sau đẻ, phụ nữ chưa nên vận động với cường độ nặng nhưng để ý đến những vận động thích hợp lại là điều rất cần thiết vì những ích lợi đã được xác định: Giảm tỷ lệ đau lưng – Giúp nâng cao thêm tâm lý hăng hái và vui sống - Giảm stress – Cải thiện khí chất - Giảm táo bón, tránh bí đái - Phục hồi sức mạnh cơ bắp và cải thiện trạng thái tim mạch - Làm cho cơ bụng trở lại săn chắc - Giúp bộ phận ngừa và phục hồi sớm trạng thái trầm cảm, tránh nguy cơ bị viêm tắc tĩnh mạch sâu, nghẽn tắc mạch phổi - Thời gian hồi phục sau đẻ nhanh hơn.

Mỗi ngày nên tập bao lâu?

Với phần to phụ nữ khỏe mạnh thì sau đẻ nên tập thể dục ít nhất 150 phút mỗi tuần với mức độ vừa phải (đi bộ nhanh) nhưng có thể chia nhỏ ra mỗi ngày, từ 10 - 20 phút và chú ý đến những hướng dẫn sau: Có thời gian khởi động – Bắt đầu từ từ và tăng dần – Tránh tập quá sức tới mức mỏi mệt – Uống nhiều nước – Mang áo nâng ngực.

Một chuyên gia về vận động lúc có thai và sau đẻ, bác sĩ James Clapp đã đưa ra những lời khuyên về vận động cho 6 tuần lễ đầu sau đẻ:  Vận động từ 3 lần trở lên mỗi tuần – Khi vận động cần cảm thấy dễ chịu và tăng cảm giác vui sống – Không bị đau hay chảy máu lúc vận động – Cần uống nhiều nước – Nghỉ ngơi đủ là một đề nghị bắt buộc.

Lưu ý: Nếu thấy ra máu sau buổi tập, nên nghỉ vài ngày rồi tập lại ở mức độ nhẹ hơn. Sau đẻ, mọi dây chằng trong cơ thể còn lỏng lẻo nên dễ bị bong gân hay giãn dây chằng.

Nếu cảm thấy chóng mặt, muốn ngất xỉu, khó thở, trống ngực, khó bước đi, nhìn mờ thì cần ngưng tập ngay và gặp thầy thuốc.  

Các loại vận động sau đẻ

Trừ những phụ nữ bị băng huyết hay sinh khó, thì sau lúc sinh 6 giờ đã có thể bắt đầu đi bộ nhẹ nhàng, thực hành những động tác nâng mông ở tư thế nằm, chuyển động nhẹ nhàng gót chân và cổ chân (nhấc lên xuống, quay vòng). Nếu không có chống chỉ định (vết mổ chưa lành tốt), hoàn toàn có thể Tiến hành tập bụng vào khoảng 6 tuần sau đẻ/sau mổ, thậm chí có thể Tiến hành sớm hơn, khoảng 3 tuần sau đẻ với một số người.

Khi đã qua 6 tuần thì có thể trở lại với những bài tập như trước lúc có thai nhưng với mức độ tăng dần và Quan tâm tới những đáp ứng chủ quan và khách quan tại những động tác tập vì phần lớn những biến đổi sinh lý và hình thái có thể đã bộc lộ rõ nhất trong 4-6 tuần sau đẻ nhưng hệ thống cơ, gân (dây chằng) và khớp chỉ hoàn toàn phục hồi như trạng thái trước đẻ sau ít nhất 9-12 tháng do đó 6 tháng đầu rất thiết yếu và cần có chương trình tập phù hợp phù hợp với thể chất của mỗi cá thể nhằm phục hồi tại mức tối ưu.   

Một số động tác cần cho phụ nữ sau đẻ

Phần lớn những biến đổi sinh lý và hình thái có thể đã bộc lộ rõ nhất trong 4-6 tuần sau đẻ nhưng hệ thống cơ, gân (dây chằng) và khớp chỉ hoàn toàn phục hồi như trạng thái trước đẻ sau ít nhất 9-12 tháng do đó 6 tháng đầu rất thiết yếu và cần có chương trình tập phù hợp phù hợp với thể chất của mỗi cá thể nhằm phục hồi tại mức tối ưu.

Nằm ngửa và ngồi dậy rất tốt để giúp bụng nhỏ lại nhanh. Nằm ngửa, gấp gối và đặt bàn chân trên sàn. Cũng có thể đặt bàn chân lên ghế tựa, cẳng chân vuông góc với cổ chân. Đặt hai tay sau gáy, hít vào từ từ, nhấc đầu và vai lên khỏi mặt sàn trong khi co các cơ bụng. Tự nâng mình lên tới mức tối đa rồi lại nằm xuống. Lặp lại động tác nhiều lần và tăng dần theo thời gian.

Để luyện tập nhóm cơ tại bụng dưới, nằm ngửa, 2 cẳng chân gấp nhưng bàn chân để sát mông. Hít vào trong khi nâng từ từ hông và tiểu khung để mông nâng lên khỏi mặt sàn. Thở ra và từ từ hạ mông. Tập nhiều lần theo khả năng. 

Không kiểm soát được tiểu tiện (bí đái hay són đái) thường gặp sau đẻ do các cấu trúc đều bị giãn, đó là lí do để thực hành bài tập Kegel (nhằm tăng sức mạnh cho nhóm cơ sàn chậu và thuận lợi cho các cơ kiểm soát tiểu tiện): Co thắt các cơ âm đạo giống như khi đang đi tiểu thì dừng lại. Giữ yên 5-10 giây mỗi lần co thắt, làm động tác co thắt tương tự từ 10-20 lần và 3 -5 lần mỗi ngày. Có thể làm động tác này bất cứ lúc nào, ở đâu và không ai nhìn thấy.

Phụ nữ đã từng được mổ lấy thai có thể trở lại những vận động như trước lúc đẻ sớm hơn nhưng do thầy thuốc quyết định. Có thể phải sau từ 2-6 tháng phụ nữ mới cảm thấy hoàn toàn hồi phục và trở lại với vóc dáng như trước. 

Vận động và cho con bú

Vận động không tác động xấu đến lượng hay thành phần sữa mẹ cũng như không ảnh hưởng tới sự phát triển thể chất của trẻ đang bú mẹ. Tuy nhiên, 1 số nghiên cứu cho rằng vận động thể chất cường độ cao có thể gây tích tụ lactic acid tại sữa làm cho sữa có vị chua mà trẻ có thể không thích (trở nên quấy khóc hơn). Nếu cho con bú thì có thể phòng ngừa sự cố tiềm ẩn này bằng cách vận động vừa phải và uống nhiều nước trong và sau khi vận động. Nếu như vận động với cường độ nặng hơn ngay trong những tháng trước nhất cho con bú thì nên cho bú trước hay vắt sữa vào bình để cho trẻ bú trước lúc vận động, làm tương tự cũng giúp cho người phụ nữ dễ chịu, tha hồ hơn khi vận động hoặc bỏ đi phần sữa đã tiết ra tại 30 phút sau khi vận động. Sau 4 - 5 tháng cho bú thì vận động thể chất ít có tác động đến sữa mẹ vì phần lớn sữa mẹ được tiết ra vào khi cho bú. 

BS. Xuân Anh

Chấn thương sọ não ở trẻ em

Bệnh viện Nhi Đồng 2, TP.HCM, gần đây đã cấp cứu kịp thời cho 2 trường hợp trẻ bị chấn thương sọ não (CTSS) do tai nạn sinh hoạt. CTSN tại trẻ em luôn là mối nguy hiểm tiềm tàng, nguy cơ diễn ra chấn thuwong luôn có tại khắp nơi…

Trường hợp trước tiên là bé Đ.L.N.G, 11 tháng tuổi, nhập viện trong tình trạng ngủ gà. Người nhà cho biết trong khi bé đang tại trong xe tập đi, vấp phải thềm nhà té đập đầu xuống nền gạch. Sau té, bé ói nhiều lần, bỏ bú, bỏ chơi, lừ đừ. Người nhà đưa bé tới khám tại bệnh viện và được bác sĩ cho chụp CT-Scan sọ não khẩn. Kết quả là bé bị máu tụ ngoài cứng đỉnh phải lượng nhiều gây lệch đường giữa. Bé được mổ khẩn ngay sau đó, các bác sĩ đã lấy ra được khoảng 30g máu tụ, kịp thời cứu tính mạng của bé. Hiện bé đã qua cơn nguy hiểm, tỉnh táo, bú rất tốt và không còn nôn ói.

Trường hợp thứ 2 là bé L.C.T, 3 tuổi, nhà ở Đồng Tháp. Khi bé đi ra đường chẳng may bị trái dừa của cây dừa mọc sát lộ rơi trúng. Bé cũng được cấp cứu và chụp CT-Scan sọ não và cũng có máu tụ nhưng là máu tụ dưới màng cứng lượng ít nên được điều trị bảo tồn, theo dõi tại phòng cấp cứu. Hiện bé đã ổn định nhưng vẫn còn đừ và không nói được. Khả năng là lực rơi của trái dừa đã làm chấn động tới vùng ngôn ngữ nói của bé khiến bé không nói được.

 Các bậc phụ huynh cần trông nom cẩn thận lúc trẻ mới biết bò.
Qua hai trường hợp này cho thấy chấn thương sọ não tại trẻ em luôn là mối hiểm nguy tiềm tàng, nguy cơ diễn ra chấn thương luôn có tại khắp nơi ví dụ không cẩn thận và tác nhân gây chấn thương đôi khi tưởng chừng như khó có thể xảy ra nhưng vẫn xảy ra.

CTSN tại trẻ em thường do bất cẩn trong sinh hoạt (chiếm 60% trường hợp), thường gặp đặc biệt té cầu thang, té giường, té võng hay do người lớn bồng ẵm tuột tay. Các lý do tiếp theo là té xe đạp, tai nạn giao thông, vật nặng va đập trúng đầu. CTSN thường gặp ở bé trai nhiều hơn bé gái do hiếu động hơn, hầu hết ở lứa tuổi một - 6. Trẻ càng nhỏ càng dễ bị CTSN do phần đầu còn to và nặng, thường rơi xuống trước, các bé lại chưa có khả năng điều chỉnh tư thế cân bằng lúc ngã.

CTSN nhẹ đặc biệt tụ máu dưới da đầu, thường gọi là u đầu hay sưng da đầu. Khi sờ sẽ thấy một cục nhỏ mềm dưới da đầu. Khối u sẽ tự tan sau vài ngày đến vài tuần. Nặng hơn là các tổn thương ở xương sọ như nứt xương, lõm sọ hay vết thương sọ não. Trầm trọng hơn là các thương tổn trong hộp sọ như máu tụ ngoài hay dưới màng cứng, dập não.

Nếu chấn thương nhẹ, bé hoàn toàn tỉnh táo, không có dấu hiệu gì lạ thì cha mẹ có thể chăm sóc bé ở nhà, nhưng cần theo dõi chặt chẽ mỗi 2 giờ 1 lần trong suốt 24 giờ đầu tiên. Những dấu hiệu cần được theo dõi:

- Tình trạng khi tỉnh lúc mê.

- Ngủ mê kêu không thức dậy.

- Nhức đầu dữ dội.

- Lỗ tai hoặc lỗ mũi chảy nước trong.

- Ói mửa nhiều lần.

- Co giật tay chân.

- Sưng to nơi da đầu.

Nếu bé có những dấu hiệu trên hoặc sau té mà bé bất tỉnh ngay thì cần đưa nhanh tới bệnh viện để được bác sĩ thăm khám, tư vấn, nếu như cần có thể phải nhập viện theo dõi. CT-Scan sọ là phương pháp tối ưu để phát hiện CTSN. Tuy nhiên việc chụp CT-Scan chỉ nên thực hiện lúc có chỉ định của bác sĩ vì tia X dù cường độ nhỏ cũng nên tránh cho trẻ nhỏ. Tránh tâm lý yêu cầu bác sĩ phải chụp phim X-quang hay CT-Scan bằng mọi giá để yên tâm.

Chẩn đoán và theo dõi 1 trường hợp CTSN còn bao gồm nhiều yếu tố cấp thiết khác như theo dõi sự thay đổi tri giác, thăm khám trẻ nhiều lần để tìm các dấu hiệu thần kinh, chứ không đơn giản là chụp một phim X- quang hay CT-Scan. Để tránh những hậu quả nghiêm trọng do CTSN gây ra, các bậc phụ huynh có con nhỏ Quan tâm những lời khuyên sau đây: trông nom cẩn thận lúc trẻ mới biết bò, biết đi; giường nằm của trẻ cần có tấm chắn, dưới chân giường trải nệm để nếu ngã trẻ đỡ bị chấn động; không để trẻ tự ý leo lên gác cao, cửa sổ đang mở hoặc lần bước xuống thang gác; khi chở các trẻ lớn đi xe hai bánh nên đội mũ bảo hiểm cho trẻ; khi diễn ra chấn thương ở đầu cần cho trẻ đi khám ngay. Nếu bác sĩ cho về nhà, trẻ vẫn phải được theo dõi sát theo hướng dẫn trong vòng một tuần. Hiện nay, tại TP.HCM có hai bệnh viện có chuyên khoa ngoại thần kinh nhi để điều trị CTSN ở trẻ em là BV. Nhi Đồng 2 và BV. Chợ Rẫy.

NGUYỄN NA (ghi)

Tư vấn chuyên môn BS. TRƯƠNG ANH MẬU Khoa Ngoại, Bệnh viện Nhi Đồng 2

Dấu hiệu chuyển giai đoạn bệnh?

Mặc dù nhiễm trùng đường hô hấp không khẳng định bệnh tiến triển sang giai đoạn AIDS và cũng không phải là điều kiện để Tiến hành điều trị thuốc kháng virut (ARV), nhưng nếu như các bệnh này diễn ra mạn tính hoặc tái diễn được xem là triệu chứng giai đoạn lâm sàng hai ở trẻ nhiễm HIV...

Bệnh thường gặp ở trẻ

Các nhiễm trùng đường hô hấp trên (viêm tai giữa, chảy mủ tai, viêm xoang và viêm họng) là 1 trong những bệnh thường gặp ở trẻ nhỏ và xảy ra phổ biến hơn tại trẻ nhiễm HIV.

Phần to các bệnh nhiễm trùng đường hô hấp trên ở trẻ có liên quan tới nhiễm virut đường hô hấp gây ra. Nhiễm virut theo mùa cũng là nguyên nhân gây viêm tai giữa, viêm xoang và viêm họng theo mùa. Nhiễm trùng virut khiến cho trẻ dễ bị bội nhiễm do vi khuẩn xâm nhập, đặc biệt là liên cầu và tụ cầu.

 Ảnh minh họa (nguồn Internet)

Do đặc điểm giải phẫu tai ở trẻ em:

Vòi nhĩ nằm ngang và nhỏ nên dễ bị bịt kín, gây ứ đọng dịch nên trẻ em hay bị viêm tai giữa, viêm xoang và viêm họng... đặc biệt ở lứa tuổi từ 2-6 tuổi. Hầu hết trẻ nhiễm HIV đều bị viêm tai giữa lúc 3 tuổi và có đến 80% trẻ bị tái phát và các biến chứng hay diễn ra như thủng màng nhĩ, chảy nước tai và điếc.

Viêm tai giữa và xoang: Thường đi kèm với triệu chứng nhiễm virut đường hô hấp trên như chảy nước mũi, sốt nhẹ, viêm họng, sưng hạch và ho. Bệnh nhi bị viêm tai hoặc viêm xoang cấp tính thường bị đau tai hoặc đau vùng xoang. Nếu là nhiễm virut thì các triệu chứng sẽ mất đi sau vài ngày. Đối với viêm tai giữa hoặc viêm xoang do vi khuẩn, các triệu chứng có thể kéo dài hơn, kèm theo đau nhiều và sốt cao hơn. Viêm xoang có thể lan sang ổ mắt gây nhiễm trùng mắt hoặc lan về hộp sọ.

 

Viêm tai giữa có thể dẫn tới thủng màng nhĩ và làm giảm bớt cơn đau ở tai. Trẻ bị thủng màng nhĩ thường bị chảy mủ tai mạn tính và bệnh có thể nặng lên nếu có viêm tai ngoài do vi khuẩn (như trực khuẩn mủ xanh) hoặc nấm (Candida Albicans). Nếu không được điều trị, viêm tai giữa có thể gây viêm tai xương chũm thậm chí dẫn đến viêm não hoặc áp-xe não. Với trẻ có hệ thống miễn dịch bị tổn thương, viêm tai giữa dễ dẫn tới biến chứng nhiễm trùng huyết hơn.

Viêm hầu họng: Ở trẻ thường do nhiễm virut hoặc liên cầu nhóm A Streptococcus pyogenes. Không thể phân biệt chuẩn xác hai kiểu nhiễm trùng này dựa trên các dấu hiệu lâm sàng, nhưng nhiễm liên cầu thường ít gây chảy nước mũi hơn. Viêm họng do liên cầu khuẩn thường đi kèm với sưng hạch dưới hàm, sốt, viêm amidan và đôi lúc có sốt phát ban.

Điều trị như thế nào?

Viêm đường hô hấp trên do virut chỉ cần điều trị hỗ trợ bằng thuốc giảm đau và hạ sốt như paracetamol. Trẻ lớn nhiễm HIV mà hệ thống miễn dịch vẫn ổn định cần phải theo dõi từ 2-3 ngày diễn ra từ khi xuất hiện triệu chứng rõ rệt trước khi dùng thuốc kháng sinh điều trị viêm tai giữa hoặc viêm xoang, vì phần lớn người chăm sóc thường tự ý điều trị cho trẻ. Trẻ nhỏ dưới 2 tuổi và trẻ bị ức chế miễn dịch nặng hơn cần được được điều trị sớm để tránh biến chứng nghiêm trọng.

 Viêm tai giữa.

Điều trị viêm tai giữa và viêm xoang:

Để điều trị viêm tai giữa và viêm xoang dùng kháng sinh amoxicillin để diệt các mầm bệnh. Do mới xuất hiện hiện tượng dung nạp thuốc tại phế cầu nên khuyến nghị sử dụng liều cao hơn so với trước đây. Trong trường hợp thất bại với liệu pháp trên cần chuyển trẻ sang điều trị bằng cephalosporin để chống lại vi khuẩn gram âm sản sinh beta - lactamase và phế cầu kháng penicillin. Thuốc kháng sinh nhóm macrolid như erythromycin hay azithromycin  là các thuốc thay thế hợp lý đối với trẻ bị dị ứng penicillin, mặc dù hoạt động của các thuốc này khá hạn chế do phế cầu có khả năng kháng macrolid cao hơn. Thời gian điều trị 7 - 10 ngày.

Trẻ bị viêm tai chảy nước cần được chữa ở chỗ, thông thường bằng thuốc fluoroquinolon nhỏ tai kết hợp làm khô tai. Có thể dùng thuốc kháng sinh đường uống (amoxicillin) kết hợp với liệu pháp điều trị tại chỗ ví dụ trẻ bị sốt hoặc mệt nhiều.

Đối với viêm xoang cấp tính, các biện pháp điều trị hỗ trợ tại chỗ như rửa mũi bằng nước muối, xông xoang mũi để chống sung huyết cũng rất quan trọng. Có thể sử dụng thuốc kháng sinh bậc hai như hướng dẫn ở trên trong trường hợp thất bại điều trị. Thời gian điều trị 10 -14 ngày.

Và cách bộ phận ngừa

Trẻ viêm đường hô hấp trên song song nhiễm HIV ở giai đoạn tiến triển cần phải điều trị Co-trimoxazol dự phòng viêm phổi do P.Jiroveci (PCP). Loại kháng sinh này cũng có tác dụng chống nhiễm trùng đường hô hấp do vi khuẩn.

Chủng ngừa Haemophilus influenzae type b (Hib) và phế cầu khuẩn được chứng minh giúp giảm hiện tượng nhiễm trùng đường hô hấp do vi khuẩn. Vì phần to trường hợp viêm tai giữa và viêm xoang là do nhiễm virut bởi vậy hiệu quả điều trị khá khiêm tốn mặc dù quan sát cho thấy các liệu pháp trên giúp cắt giảm đáng kể các bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn.    

BS. Nguyễn Bích Ngọc

Kinh nguyệt sau sinh

Sau lúc sinh, tình trạng kinh nguyệt trở lại bình thường phụ thuộc rất nhiều về yếu tố mẹ có cho con bú hay không. Ở những người phụ nữ không cho con bú, khoảng 40% phụ nữ lần có kinh trước hết diễn ra vào 6 tuần sau sinh và khoảng 90% phụ nữ có kinh lại từ 24 tuần sau sinh.

Còn với người cho con bú, duy nhất 15% phụ nữ có kinh trở lại sau 6 tuần. Tuy nhiên, họ đều có khả năng có thai. Hiện tượng rụng trứng có khả năng xảy ra trước lúc có có kinh lần đầu ở người phụ nữ đang cho con bú tăng từ 33 - 45% trong 3 tháng đầu lên tới 64 - 71% trong tháng 4 đến tháng 12 và 87% sau tháng 12.

Trong 6 tháng đầu sau sinh, nếu như người phụ nữ cho con bú hoàn toàn (90% dinh dưỡng của con từ sữa mẹ) và không có kinh thì người phụ nữ rất ít nguy cơ có thai, và không cần vận dụng 1 biện pháp tránh thai nào khác. Nguyên nhân là do khi cho con bú, prolactin gia tăng ức chế rụng trứng. Sau 6 tháng, hiệu quả tránh thai giảm xuống và cần được ứng dụng 1 biện pháp tránh thai khác. Hoặc nếu có kinh trở lại trong khoảng thời gian này thì cũng cần vận dụng biện pháp khác.

 Sau sinh nên tham khảo ý kiến của bác sĩ để tin tưởng lựa chọn 1 biện pháp tránh thai an toàn. Ảnh: Hồng Vân

Ngay cả sau khi kinh nguyệt đã xuất hiện 1 vài chu kỳ trước tiên ở phụ nữ sau sinh thì nó vẫn có thể không đều. Thậm chí những chu kỳ này có thể khác hẳn với các chu kỳ trước lúc sinh con. Những thay đổi của các chu kỳ kinh nguyệt không đều sau khi bạn có em bé, có thể tiếp tục trảo đổi vô thời hạn hoặc thậm chí thay đổi vĩnh viễn.

Chỉ có 1 phần rất nhỏ phụ nữ sẽ có chu kỳ kinh nguyệt đều đặn hoặc thất thường như những chu kỳ khi chưa có em bé của họ, bất kể họ đang cho con bú. Tuy nhiên không thể biết chắc chắn bạn có rơi về nhóm những phụ nữ này không bởi vì quá trình này không phải luôn luôn giống nhau tại mỗi phụ nữ sau lúc đứa trẻ được sinh ra.

Nhiều người cho rằng họ không thể có thai 1 lần nữa cho tới lúc chu kỳ kinh nguyệt sau lúc sinh em bé của họ bắt đầu đi vào quỹ đạo đều đặn như trước kia. Song điều này là hoàn toàn sai lầm. Bởi vì cho dù chu kỳ kinh nguyệt không đều, sự rụng trứng vẫn luôn luôn diễn ra và khả năng có thai vẫn có thể diễn ra do buồng trứng vẫn còn hoạt động.

Do đó, trong khoảng thời gian này, bạn vẫn nên tham khảo ý kiến của bác sĩ để lựa chọn một biện pháp ngừa thai cho an toàn nếu bạn thực sự chưa sẵn sàng cho việc có thai thêm 1 lần nữa và kỳ vọng một chu kỳ kinh nguyệt đều đặn như trước đây có thể có hiện tượng trở lại.

Trong khoảng thời gian này, nên tham khảo ý kiến của bác sĩ để lựa chọn 1 biện pháp tránh thai cho an toàn nếu bạn thực sự chưa sẵn sàng cho việc có thai thêm một lần nữa và hy vọng một chu kỳ kinh nguyệt đều đặn như trước đây có thể xuất hiện trở lại.      

  Bác sĩ Bùi Thị Phương

Sơ cứu trẻ sốt cao co giật theo cổ phương

Sốt cao co giật tại trẻ em có nhiều nguyên nhân khác nhau, phần to do biểu hiện phản ứng nhiễm khuẩn của cơ thể mà gây ra như: viêm họng, viêm não, viêm màng não, viêm phổi… Nếu không xử lý kịp thời dễ để lại di chứng cho trẻ do thiếu ôxy nuôi dưỡng não bộ.

Theo Đông y, chứng sốt cao co giật là do nhiệt cực sinh phong, can phong nội động. Phép chữa dùng pháp bình can, tiềm dương, tức phong, chỉ kinh. Đây là một chứng cấp cứu trong y khoa cần can thiệp kịp thời. Bài viết sau xin giới thiệu với bạn đọc phương pháp cấp cứu của cổ nhân để các bạn tham khảo và áp dụng:

 

Khi phát hiện trẻ sốt cao co giật, nếu trẻ ngủ, cần đánh thức trẻ dậy ngay để tránh trẻ hôn mê sâu. Nhanh chóng tạo không khí thoáng mát, đặt trẻ nằm xuống giường hay một mặt phẳng, nếu không có thể nắm giữ về tay trẻ một vật bằng sắt không sắc nhọn có độ bóng càng cao càng tốt, nới lỏng quần áo, đặc biệt vùng cổ; nếu trẻ có nôn thì đặt trẻ nằm nghiêng để tránh sặc chất nôn mà gây viêm phổi.

 

Nếu cần thì cho trẻ ngậm khăn bộ phận trường hợp cắn vào lưỡi. Lựa theo chiều co giật mà giữ trẻ ổn định, tránh để va đập gây tổn thương cho trẻ. Trước tiên, bấm ngay nhân trung  trong vòng một - 2 phút (tại điểm nối 1/3 trên và 2/3 dưới của rãnh nhân trung, giữa đáy rãnh) với lực tương đối mạnh để khai khiếu tinh thần, kích thích trung khu hô hấp, nâng cao cường ôxy nuôi dưỡng tế bào não. Sau đó sử dụng 2 ngón tay cái và 2 ngón tay trỏ kẹp lấy hai dái tai trẻ, vừa vê, vừa day, vừa  kéo xuống với lực vừa phải tới khi trẻ trở lại bình thường.

 

 Chườm hoặc đắp khăn mát về nách, bẹn để hạ thân nhiệt cho trẻ.
Kinh nghiệm cho thấy, cấp cứu bằng phương pháp này thường sau 5 - 7 phút là trẻ có thể giảm sốt, hết co giật. Cần chú ý lúc làm động tác này hãy nhìn về mắt trẻ mà điều khiển đôi tay. Nếu mắt trẻ ngước lên, hai tay vừa vê, vừa kéo dái tai xuống. Mắt trẻ mở lớn mà con ngươi chúc xuống, 2 tay vừa vê, vừa kéo dái tai ngược lên. Mắt trẻ nhìn chéo vào bên trái, hai  tay vừa vê, vừa kéo dái tai phảivề bên phải và ngược lại.

Khi trẻ ổn định thì sử dụng khăn mềm nhúng vào nước hơi ấm, lau khắp người cho trẻ, đặc biệt vùng nách, bẹn, trán, sau đó cho trẻ đi khám để điều trị nguyên nhân.

 Ấn huyệt nhân trung để khai khiếu tinh thần cho trẻ sốt cao.
Chú ý: Chứng sốt cao co giật ở trẻ nhỏ là chứng bệnh cấp tính. Tuy phương pháp này của cổ nhân hiệu nghiệm nhưng cấp cứu trong vòng 5 - 7 phút mà các triệu chứng không giảm, không hết thì cần cho trẻ đi bệnh viện cấp cứu ngay để tránh điều đáng tiếc xảy ra với trẻ.

 

Khi trẻ co giật, không nên tìm cách chống lại cơn co giật của trẻ bằng cách ghì chặt trẻ vì có thể gây tổn thương ở 1 số phòng cơ thể hoặc có thể làm gãy xương trẻ. Không được cho trẻ ăn, uống bất cứ thứ gì vì có thể gây sặc, song song tuyệt đối không ủ ấm và không uống đồ lạnh.  

Lương y Chu Văn Tiến

Nhiễm khuẩn tiết niệu ở phụ nữ mang thai

Thời gian mang thai được coi là 1 yếu tố nguy cơ  NKTN tại phụ nữ. Nguy hiểm hơn là có từ 5 đến 10% thai phụ mắc bệnh nhưng không có dấu hiệu lâm sàng. Nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho cả người mẹ và thai nhi.

Bệnh thường gặp khi mang thai - vì sao?

Đường niệu của người mang thai có những đặc điểm không bình thường do khối lượng tử cung to chèn ép vào bàng quang và niệu quản gây giãn niệu quản, ứ đọng nước tiểu hoặc giãn đài bể thận do sự trào ngược nước tiểu. Nước tiểu ứ đọng gây giảm độ đặc, xuất hiện chuyển ngược dòng bàng quang - niệu quản, lượng đường trong nước tiểu tăng, progestin và estrogen niệu tăng… Đây là những yếu tố tiện dụng gây NKTN lúc mang thai.

NKTN xảy ra khi các vi sinh vật  ở ống tiêu hóa bám về lỗ niệu đạo và bắt đầu sinh sản. Hầu hết các NKTN do vi khuẩn E.coli (Escherichia Coli) từ vùng hậu môn, âm đạo xâm nhập vào bàng quang qua niệu đạo vốn rất ngắn của phụ nữ (chỉ 3-4cm), nhiễm khuẩn khu trú tại đấy gọi là nhiễm khuẩn niệu đạo. Từ đây, vi khuẩn di chuyển đến bàng quang, lan đến bể thận qua đường niệu quản gây viêm thận - bể thận.

 Phụ nữ mang thai nên uống nước nhiều.

Một số thể NKTN tại phụ nữ có thai

Thể NKTN không có triệu chứng

Vi khuẩn mới khu trú tại niệu đạo nên thường không gây triệu chứng lâm sàng mà người bệnh có thể cảm nhận được. Nếu qua 2 lần xét nghiệm nước tiểu riêng biệt thấy có tối thiểu 100.000 vi khuẩn trong 1ml nước tiểu được coi là NKTN. Tuy là thể bệnh không có biểu hiện lâm sàng, nhưng có khoảng gần 10% người mang thai gặp trường hợp này.

 

Vì thế, ngay từ lần khám thai trước nhất phải bắt buộc cấy nước tiểu và sau đó từ tuần thứ 12 - 16 của thai kỳ phải xét nghiệm lặp lại để tìm vi khuẩn. Nếu không được phát hiện sớm và điều trị kịp thời sẽ dẫn đến viêm bàng quang cấp (30%) hay viêm đài - bể thận cấp (50%). Ngoài ra, cũng có thể đưa tới tình trạng thai chậm phát triển, trẻ sinh ra thiếu cân, sinh non …

Thể viêm bàng quang:

Đái buốt, đái dắt, có khi đái ra máu mủ cuối bãi, có cảm giác nóng bỏng, rát lúc đái, không sốt, người mệt mỏi khó chịu.  Nếu không được điều trị kịp thời thì viêm bàng quang có thể dẫn tới viêm thận - bể thận cấp.

Thể viêm thận - bể thận cấp

Đây là thể nặng nhất trong các bệnh NKTN. Khởi phát thường đột ngột với hội chứng nhiễm khuẩn rầm rộ, sốt cao 39oC – 40oC, mạch nhanh, rét run, thể trạng suy sụp nhanh, hốc hác, mệt mỏi li bì, đau vùng thắt lưng bên phải là triệu chứng hay gặp, có lúc đau âm ỉ, cũng có lúc đau dữ dội từng cơn, đau xuyên xuống hố chậu phải và bộ phận sinh dục.

Nếu không điều trị kịp thời thì viêm thận - bể thận cấp sẽ gây ra những biến chứng nguy hiểm cho cả mẹ và thai nhi. Người mẹ dễ bị choáng, sốc nhiễm khuẩn gây suy tuần hoàn, suy hô hấp cấp, suy thận cấp...; thai nhi dễ bị suy thai, đẻ non...

Bệnh cảnh này thường gặp trên người có tiền sử viêm thận - bể thận do sỏi, có viêm bàng quang do sỏi, hoặc dị dạng đường tiết niệu từ trước khi mang thai mà chưa biết nay mới có điều kiện bộc lộ ra ngoài.

Điều trị có khó không?

Vấn đề khó khăn trong điều trị NKTN cho thai phụ là tại chỗ, nhiều người coi thường, bệnh không được phát hiện điều trị sớm, lạm dụng kháng sinh, dùng không có hướng dẫn của bác sĩ, không có liều lượng, tuỳ hứng khiến tỷ lệ vi khuẩn đề kháng với các kháng sinh thông dụng càng ngày càng cao. Khi đó, việc điều trị phát triển thành phức tạp hơn rất nhiều.

Đối với thể nhiễm khuẩn tiết niệu không có triệu chứng và thể viêm bàng quang cấp, sản phụ có thể điều trị ngoại trú dưới sự theo dõi hướng dẫn của thầy thuốc sản khoa. Dùng kháng sinh loại không có hại cho thai. Khi tìm thấy vi khuẩn, phải điều trị bằng kháng sinh cho tới lúc hết nhiễm khuẩn.

 

Khác với viêm bàng quang tại người không mang thai chỉ dùng kháng sinh 3 ngày là có hiệu quả, người mang thai viêm bàng quang phải sử dụng kháng sinh đến 10 ngày (có thể do khi mang thai, vi khuẩn có điều kiện thuận lợi để phát triển, trong khi cơ thể thì giảm sức đề kháng với vi khuẩn). Nếu điều trị ngắn ngày, bệnh sẽ dễ bị tái phát, khi đó sẽ phải dùng kháng sinh liều cao hơn.

 Kháng sinh thường sử dụng là ampicilin, erythromycin. Trường hợp vi khuẩn kháng thuốc (khoảng 30% E. Coli kháng thuốc) thì dùng amoxycillin + acid clavulanic hay cephalexin hay nitrofurantoin.

Các kháng sinh dưới đây tuy có tác dụng mạnh đối với vi khuẩn nhưng khuyến cáo không nên sử dụng vì có hại cho thai nhi như: tetracyclin  gây hại xương và mầm răng của thai (từ tháng thứ tư), gây dị tật ở ngón chân, ngón tay. Fluoroquinolon  gây thoái hóa sụn khớp chịu lực, tuy chưa có đầy đủ thông tin thuốc gây tác hại đối với thai nhi.

 

Bactrim (trimethoprim+ sulfamethoxazol) với bà mẹ sẽ gây tổn thương nặng đến công thức máu, gây thiếu máu nguyên hồng cầu khổng lồ, có thể gây suy thận, suy gan nặng và tất cả những ảnh hưởng trên bà mẹ đều có ảnh hưởng không lợi cho thai (nhất là 3 tháng đầu thai kỳ), thậm chí có thể gây khuyết tật thai (do thiếu acid folic).

Đối với thể viêm thận - bể thận cấp, sản phụ cần được điều trị tích cực ở bệnh viện. Tại đây, sản phụ sẽ được thăm khám đầy đủ cả về tiết niệu và sản khoa, tiến hành làm các xét nghiệm đánh mức giá tình trạng nhiễm khuẩn và chức năng thận, làm siêu âm kiểm tra hệ tiết niệu, siêu âm kiểm tra xem thai nhi có bị ảnh hưởng gì không... Muốn điều trị có kết quả tốt bệnh NKTN nên sử dụng kháng sinh theo kết quả kháng sinh đồ.

Kháng sinh thường sử dụng là dạng tiêm tĩnh mạch cefazolin hoặc gentamycin kết hợp với ampicillin hoặc ceftriaxon. Kháng sinh được sử dụng ngay từ lúc có biểu hiện lâm sàng rõ mà không chờ kết quả xét nghiệm, dùng liên tục cho đến lúc hết sốt. Trừ một số trường hợp đặc biệt, còn phần nhiều người bệnh đáp ứng và có hiệu quả sau 24 - 48 giờ. Nếu trường hợp đặc biệt (bị kháng thuốc hay có dị dạng đường niệu) thì cần sử dụng các biện pháp giải quyết nguyên nhân, cần chuyển lên tuyến, nơi có đủ điều kiện.

Sau lúc khỏi, có thể dùng cephalexin hoặc nitrofurantoin hàng ngày trong một thời gian nữa để tránh tái phát.

Phòng bệnh như thế nào?

Phụ nữ khi mang thai cần kiểm tra nước tiểu định kỳ 3 tháng 1 lần. Không nên cố nhịn khi muốn đi tiểu, nên đi tiểu ngay sau lúc giao hợp, vệ sinh vùng âm hộ - hậu môn hàng ngày và sau lúc đi đại tiện,  nên vệ sinh từ trước ra sau dưới vòi nước. Ngoài ra cần uống đủ nước để giúp nước tiểu không cô đặc bộ phận sỏi hệ tiết niệu.

NKTN nguy hại cho bà mẹ (gây tăng huyết áp - tiền sản giật, thiếu máu, viêm ối, có thể sinh non, bị choáng nhiễm khuẩn), nguy hại cho thai (làm thai chậm phát triển, trẻ sinh ra thiếu cân và có thể bị sinh non). Do vậy, cần được điều trị tích cực. Với trường hợp NKTN không triệu chứng, cần chú ý đến việc thăm khám thai để được phát hiện, điều trị sớm.

Với NKTN có viêm bàng quang cấp hay viêm đài - bể thận cấp, cần xác định là trường hợp nặng, đưa đến đúng tuyến, điều trị sớm. Trong mọi trường hợp, cần tránh dùng các kháng sinh có hại cho thai.

 BS. Vũ Cường

Thuốc điều trị viêm họng cấp ở trẻ em

(suckhoedoisong.vn) –  Viêm họng cấp là loại bệnh chiếm tỷ lệ bậc nhất ở các bộ phận khám nhi khoa. Viêm họng vào mùa hè do nhiều nguyên nhân, trong đó phần to là do virut (cúm, sởi) và vi khuẩn (phế cầu, liên cầu hoặc các vi khuẩn khác sẵn có tại họng). Ngoài các nguyên do đó phải kể tới các nhân tố nguy cơ như đánh tráo thời tiết nóng lạnh đột ngột, ẩm, bụi, khói thuốc...

Tại sao trẻ em hay bị viêm họng cấp?

Họng là ngã tư giữa đường ăn và đường thở, là cửa ngõ của không khí, thức ăn và nước uống. Vì vậy có thể nói là nơi rất tiện dụng cho các yếu tố ngoại lai, virut và vi khuẩn xâm nhập về cơ thể.

 

Viêm họng cấp thường khởi phát đột ngột, sốt cao 39-40oC, kèm theo là nuốt đau, rát họng, khàn tiếng có thể kèm theo các triệu chứng khác như: chảy nước mũi nhầy, tiếng nói khàn nhẹ và ho khan, trẻ mệt mỏi, môi khô, lưỡi bẩn, đặc biệt hay có viêm tấy hạch vùng cổ, hạch góc hàm sưng, đau… Với trẻ còn bú, viêm họng thường kèm theo bú ít hoặc bỏ bú, há miệng lúc ngủ, khó chịu và quấy khóc. Với trẻ lớn hơn thường kêu đau vùng họng, chán ăn nên dễ làm cho cha mẹ nhầm tưởng với một số bệnh răng miệng…

 Cần đưa trẻ đi khám bệnh để được dùng thuốc thích hợp.

Các thuốc và những lưu ý lúc sử dụng

Những trường hợp viêm họng, đa số có thể điều trị bằng cách súc miệng với nước muối. Rất ít trường hợp phải sử dụng tới kháng sinh, trừ khi viêm họng nặng. Vì vậy, đừng tự luôn thể sử dụng kháng sinh khi viêm họng kẻo nhờn thuốc và gây hậu quả không tốt.

Với trẻ dưới một tuổi lúc bị sốt, có thân nhiệt trên 38°C thì cần sớm cho trẻ đi khám, tránh tự ý điều trị, vì trẻ sốt cao rất dễ dẫn đến co giật. Cần cho trẻ uống đúng thuốc, đủ liều, đúng thời gian, không được tự ý mua thuốc kháng sinh để điều trị vì điều trị không chuẩn sẽ để lại tình trạng kháng thuốc, làm cho điều trị sau này gặp nhiều khó khăn.

Chỉ dùng kháng sinh lúc viêm họng do vi khuẩn (theo chỉ định của bác sĩ). Có thể sử dụng xông họng, khí dung bằng các loại kháng sinh, kháng viêm. Các loại kháng sinh hay sử dụng là: rovamycin, loại này rất tốt nhưng không phòng được thấp tim.

 

Vì vậy, người ta hay sử dụng nhóm benzylpenicilin như amoxicillin, augmentin. Vì các loại này có thể tiêu diệt được vi khuẩn liên cầu tan huyết nhóm A. Đó là kháng sinh bây giờ khá phổ biến và có tác dụng tốt. Với viêm họng mạn tính, súc họng bằng các dung dịch kiềm. Một số trường hợp có thể đốt hạt tại họng bằng muối bạc (NO3Ag), axit chromic, đốt điện, lazer CO2  hoặc nitơ bạc.

Với viêm họng do virut, không cần sử dụng thuốc kháng sinh, mà nên dùng các nhóm thuốc sau: Nhóm giảm nhiệt như efferalgan, paracetamol, aspegic... chỉ dùng lúc nhiệt độ trên 38oC và sau 4-6 giờ mới dùng lại; Nhóm giảm ho như atussin, siro phenergan, ho bổ phế, theralen...; Nhóm làm cho độ pH ở họng ổn định, giảm ngứa, giảm rát như rhinathiol viên hoặc siro, các loại thuốc ngậm như oropivalon, lysopaiin, các loại thuốc phun như locatiotal...; Nhóm thuốc súc họng bằng các dung dịch kiềm như: nước muối sinh lý...; Nhóm giảm phù nề chống viêm, tan đờm như: alpha-chymotrypsin, mucomyst, mucosoval...

Các thuốc chống viêm nhóm glucocorticoid như dexamethason, prednisolon đã được chứng minh là có tác dụng tốt với nhiều bệnh lý có viêm đường hô hấp tại trẻ em như hen phế quản, viêm tiểu phế quản... Tuy nhiên, tác dụng của các thuốc này trong viêm họng cấp vẫn là 1 đề tài còn nhiều tranh cãi. Hầu hết các nghiên cứu đều chứng minh glucocorticoid khi dùng phối hợp với kháng sinh giúp giảm triệu chứng đau họng nhanh và mạnh hơn rõ rệt so với chất lượng kém dược.

 

Vì thế, glucocorticoid đã được dùng khá rộng rãi để điều trị triệu chứng đau họng trong viêm họng cấp tại trẻ em, nhất là trường hợp viêm họng cấp do liên cầu. Các loại glucocorticoid như dexamethason, betamethason được ưa dùng hơn so với prednisolon hoặc methylprednisolon do ít gây phù và giữ nước hơn, đường uống được ưa dùng hơn đường tiêm do hiệu quả tương đương mà không gây đau và ít nguy cơ hơn cho trẻ.

 

Tuy nhiên, glucocorticoid chỉ giúp giảm nhanh triệu chứng sưng đau họng, không giúp chữa khỏi bệnh hoặc rút ngắn thời gian bị bệnh, do đó, chúng không thể thay thế được kháng sinh hoặc các thuốc kháng virut và chỉ nên dùng trong trường hợp có sưng đau họng mức độ vừa và nặng. Để hạn chế tác dụng phụ, thuốc nên dùng với liều thấp và trong một thời gian ngắn (từ 3-5 ngày), uống một lần trong ngày về buổi sáng, sau lúc trẻ đã ăn no.

Cuối cùng là nhóm sinh tố tăng thể trạng như vitamin C… Mặc dù vậy, trước lúc cho trẻ sử dụng thuốc, các bậc cha mẹ nên đưa con tới bác sĩ để được khám và chỉ dẫn sử dụng thuốc cho đúng. 

PGS. TS. Nguyễn Ngọc Sáng

(Đại học Y Hải Phòng)

Món ăn dành cho thai phụ bị thiếu máu

(suckhoedoisong.vn) - Khi mang thai, cơ thể người mẹ phải đem tới hầu hết chất dinh dưỡng cho thai nhi đặc biệt là sắt nên các tạng phủ như gan, lách, vị... đều bị hư tổn dẫn đến khí huyết không đủ nuôi dưỡng hoặc khả năng biến đổi chất bị suy yếu. Thai phụ bị thiếu máu thường có biểu hiện mệt mỏi yếu sức, rụng tóc, móng tay móng chân và niêm mạc miệng môi mắt nhợt nhạt, trường hợp nặng sắc mặt trắng xanh, phù nhẹ, mất sức, đầu váng tai ù, tim hoảng hốt, hụt hơi, ăn kém, bụng đầy, rối loạn đại nhân tiện khi táo lúc lỏng.Xin giới thiệu một số món ăn bổ dưỡng phòng chữa thiếu máu lúc mang thai, chị em có thể tham khảo.

Canh mộc nhĩ: mộc nhĩ đen 15g, hồng táo 20 quả, thịt lợn nạc 100g, mắm muối vừa đủ. Mộc nhĩ đen ngâm nước nóng, rửa sạch thái nhỏ, hồng táo bỏ hạt, thịt lợn nạc rửa sạch băm nhỏ ướp mắm muối xào chín. Tất cả cho về nồi thêm 200ml nước đun sôi đến khi canh chín. Ăn ngày một lần khi đói. Cần ăn liền 5 - 7 ngày.

Canh cà chua: cà chua ngon 300g, trứng gà 3 quả, tim lợn 100g, bột ngọt, gia vị vừa đủ. Cà chua rửa sạch, bỏ hạt thái miếng. Tim lợn rửa sạch thái chỉ ướp gia vị xào chín, cho cà chua về xào tiếp với tim, thêm nước vừa đủ, đun canh cho sôi rồi đập trứng gà, bột ngọt về đảo đều, canh sôi lại là được. Ăn ngày hai lần lúc đói. Cần ăn liền 7 - 10 ngày.

 Canh long nhãn, táo tàu, mật ong.

Long nhãn hấp:

long nhãn 15g, táo tàu 5 quả, mật ong một thìa canh, gừng một lát mỏng. Táo tàu bỏ hạt, gừng giã nhỏ. Cho toàn bộ về bát to, trộn đều hấp cách thủy, khi chín ăn ngày một lần lúc đói. Cần ăn khoảng 15 ngày.

Cá hấp: cá quả một khúc khoảng 200g, cà chua 200g, củ cải trắng 100g, bột ngọt, bột gia vị vừa đủ. Tất cả cho vào bát lớn thêm bột gia vị và bột ngọt, đem hấp cách thủy. Khi cá chín còn nóng ăn ngày một lần khi đói. Cần ăn liền 10 ngày.

Thịt thỏ hầm:

thịt thỏ 250g, hồng táo 10 quả, cà rốt 50g, đậu xanh 50g, hạt sen 50g, mắm muối vừa đủ. Thịt thỏ rửa sạch chặt miếng ướp mắm muối xào chín. Hồng táo bỏ hạt, cà rốt nạo vỏ thái miếng, đậu xanh, hạt sen xay giập. Tất cả hầm nhừ, chia ăn hai lần trong ngày lúc đói. Ăn liền 10 ngày.

Xương sống lợn hầm: xương sống lợn 500g, ngó sen 200g, cải xoong 150g, mắm muối vừa đủ. Xương sống lợn chọn phần còn tủy, chặt vừa miếng ướp mắm muối xào chín, hầm nhừ. Ngó sen rửa sạch thái chỉ. Cải xoong rửa sạch cắt đoạn. Khi xương đã nhừ cho ngó sen, cải xoong về đảo đều, ngó sen và cải chín là được. Ăn ngày một lần. Ăn liền 10 ngày.

Cháo cá quả: cá quả 1 con khoảng 300g, hạt sen 50g, gạo nếp 50g, gạo tẻ 100g, bột ngọt, gia vị, hạt tiêu vừa đủ. Cá quả làm sạch bỏ vảy, nội tạng, đem hấp cách thủy, lúc chín gỡ lấy thịt nạc, ướp bột ngọt, bột gia vị, hạt tiêu. Hạt sen, gạo nếp, gạo tẻ xay thành bột. Xương cá đem giã nhỏ lọc lấy nước, cho bột gạo vào quấy đều đun nhỏ lửa. Cháo chín cho thịt cá về đảo nhẹ, cháo sôi lại là được. Ăn ngày một lần lúc đói. Ăn liền 10 ngày.   

Lương y Đình Thuấn

5 thói quen có lợi cho sức khỏe của bé

Chỉ là những thói quen nhỏ thường ngày nhưng lại có tác dụng rất to đối với việc duy trì và tăng sức khỏe cho bé.

1. Ăn thức ăn tươiBác sỹ nhi khoa khuyên các bà mẹ nên chọn thực phẩm tươi sống để chế biến món ăn cho bé trong mọi trường hợp có thể. Bên cạnh đó bạn cũng nên hạn chế tối đa cách chế biến là chiên, rán mà thay về đó là đun sôi, nấu, luộc thực phẩm với nước là chủ yếu. Trong lúc nấu đồ ăn cho bé nên cho thêm ít dầu, mỡ chưa qua sử dụng.

5 thói quen có lợi cho sức khỏe của bé

2. Hạn chế ăn thực phẩm chế biến sẵnThực phẩm chế biến sẵn như lạp xưởng, thịt sấy, ruốc thịt… thường chứa hàm lượng Natri và axit nitric cao. Vì vậy bạn nên “kiêng” các loại thực phẩm chế biến sẵn trong thực đơn hàng ngày của bé, cho dù các bé thường rất thích ăn.3. Ăn nhiều rau củ quảRau củ quả thường chứa nhiều chất xơ có tác dụng giúp đỡ quy trình co bóp của dạ dày, đẩy nhanh các chất độc ra ngoài cơ thể, giảm bớt gánh nặng cho gan. Ngoài ra còn có 1 số loại quả tốt cho sức khỏe của bé như táo, nho đỏ, anh đào… có khả năng bảo vệ các tế bào trong cơ thế.

5 thói quen có lợi cho sức khỏe của bé

4. Đi ngủ sớmCũng giống như việc đổ rác, cơ thể bé cũng dành ra 1 khoảng thời gian cố định để thực hiện việc bài trừ các chất độc. Đó là vào khoảng từ 23h – 3h. Trong khoảng thời gian này ví dụ bé đang được thư giãn, nghỉ ngơi cùng giấc ngủ thì sẽ rất có lợi cho việc trừ độc trong cơ thể. Bởi sau lúc cơ thể đi vào trạng thái ngủ, máu sẽ được tập trung về 1 số phòng chính yếu như tim, gan nên có thể đẩy nhanh quy trình trừ độc. 5. Thường xuyên vận độngThường xuyên vận động sẽ giúp khí, nước và máu lưu thông thuận lợi, nhịp nhàng trong cơ thể, giúp ích gần như cho quy trình trừ độc. Các mẹ đừng sợ con quá hiếu động mà giảm thiểu bé tham gia các trò chơi vận động nhé.

 

Theo Maskonline

Viêm âm đạo do thiếu nội tiết

Viêm âm đạo (VAĐ) là 1 bệnh lý phổ biến thường gặp nhất trong các bệnh lý phụ khoa, trong đó có đa số nhóm nguyên nhân gây ra VAĐ, có thể do vi trùng, do nấm, do ký sinh trùng... Hiện nay VAĐ còn do nguyên do thiếu nội tiết cũng thường gặp trên lâm sàng.

Bệnh lý này gặp ở nữ phụ nữ có phẫu thuật cắt bỏ hai buồng trứng, có điều trị xạ trị hay điều trị hóa chất và tại những phụ nữ trong tuổi mãn kinh.

VAĐ do thiếu nội tiết xảy ra như thế nào?

Niêm mạc âm đạo có rất nhiều nếp gấp ngang, chịu ảnh hưởng của các nội tiết tố nữ và thường hơi ẩm do các chất dịch tiết ra từ các tuyến như tế bào biểu mô tuyến ở âm đạo, tuyến Bartholin, tuyến Skene và dịch nhầy từ cổ tử cung, tạo nên chất dịch nhầy định vị trong âm đạo. Dịch tiết âm đạo thông thường có màu trắng đục, mịn như bông và tập trung ở túi cùng sau. Vi trùng thường trú trong âm đạo phần to các vi trùng ái khí, cốt yếu là các lactobacilli có khả năng chuyển hóa glycogen trong tế bào thành acid lactic giữ cho pH âm đạo ở mức < 4,5. Khi cơ thể thiếu nội tiết tố nữ các tuyến và cấu trúc của thành âm đạo không phát triển do vậy chất dịch âm đạo không xuất hiện. Chính điều này làm rối loạn môi trường âm đạo, cũng như thành âm đạo không được bảo vệ. Đây là mấu chốt làm cho âm đạo bị tổn thương biểu hiện sự viêm do thiếu hụt nội tiết tố nữ bao gồm chất thiếu chất là estrogen và progesterone.

Ảnh minh họa

Cách xác định VAĐ do thiếu nội tiết

Các triệu chứng thường là viêm không đặc hiệu, huyết trắng ít, có thể thấy có mủ hôi, đôi lúc lẫn máu, cảm giác của người bệnh đau trằn bụng dưới, nóng rát âm hộ, âm đạo. Có thể đi kèm vào rối loạn đường tiểu như tiểu lắt nhắt, tiểu buốt. Khi thăm khám bằng tay hay đặt mỏ vịt vào âm đạo người bệnh, than đau nhiều, kiểm tra thấy niêm mạc thành âm đạo nhợt nhạt, có thể có những chấm xuất huyết đỏ.

Lấy huyết trắng để soi tươi, kết quả thấy tế bào trung gian, không thấy tế bào bề mặt, có thể có vi trùng hay vùng xuất huyết.

Những ảnh hưởng

Bình thường âm đạo chịu sự ảnh hưởng và chi phối của nội tiết tố sinh dục nữ, giúp cho vai trò của âm đạo duy trì tính sinh lý của cơ quan này trong quy trình bảo đảm chức năng tình dục và khả năng tránh được nhiễm trùng.

Một khi nội tiết tố sinh dục nữ bị thiếu hụt hay mất đi, chức năng của âm đạo bị ảnh hưởng rất nhiều. Người bệnh không còn cảm giác hứng thú trong sinh hoạt “vợ chồng”, cảm giác khó chịu liên tục xảy ra, một khi vệ sinh không tốt hay có các bệnh lý đi kèm làm cho sức đề kháng của cơ thể giảm thì nguy cơ nhiễm trùng luôn luôn rình rập.

Cách điều trị VAĐ do thiếu nội tiết

Điều trị cốt yếu là tại chỗ, dùng dưới dạng kem thoa vào thành âm đạo hay viên nang đặt về trong âm đạo, với thời gian điều trị 15 - 20 ngày. Thuốc thường được sử dụng là 1 trong các loại thuốc sau đây: thuốc dạng kem thoa, như cream estrogen, cream promestriene, thuốc dạng kem có thể thoa về âm đạo ngày một lần. Thuốc dạng viên nang đặt trong âm đạo như Estriol 0,5mg, Promestriene 10mg, sử dụng một viên ngày, nên đặt về lúc tối trước lúc đi ngủ.

Khi có bội nhiễm đi kèm hay có nhiễm trùng đường tiểu, phải kết hợp thuốc kháng sinh toàn thân như: Cephalexin, Ofloxacin, Doxycycilin. Thường sử dụng thêm các loại thuốc chống co thắt như Spasmaverin, NO-SPA, Spasless.

Ngoài ra, cần kết hợp chế độ dinh dưỡng đầy đủ, đảm bảo đầy đủ các thành phần dinh dưỡng, chất đạm, chất béo, chất bột, chất xơ, vitamin và muối khoáng, tránh ăn kiêng hay ăn không đủ chất. Có một chính sách nghỉ ngơi hợp lý và rèn luyện thân thể hàng ngày bằng các phương pháp tập thể dục...

Chế độ vệ sinh rất cần thiết, không nên lạm dụng thuốc rửa vệ sinh phụ nữ hàng ngày, chỉ cần sử dụng thuốc vệ sinh khi có nhiễm trùng, huyết trắng hôi, hay huyết trắng chuyển màu, không sử dụng thường xuyên hàng ngày vì trong thuốc rửa vệ sinh làm bào mòn niêm mạc thành âm đạo và làm mất cân đối môi trường âm đạo. Chỉ cần rửa nước sạch sau mỗi lần vệ sinh và thấm khô bằng khăn giấy là đủ.

Sau khi dùng thuốc dạng kem hay dạng viên đặt thường phải duy trì thường xuyên, có thể nghỉ 3 - 4 tuần rồi duy trì 2 tuần. Cần đi khám phụ khoa định kỳ mỗi 3 tháng một lần;  tái khám ngay lúc có dấu hiệu lạ.

 BS.CKII. NGUYỄN HỮU THUẬN

Bạn đã biết cách chăm sóc răng miệng cho bé yêu

Ai cũng luôn mong muốn bé yêu của mình có được hàm răng chắc khỏe, trắng bóng và biết cách tự vệ sinh răng miệng.

Trong lúc đó, cuộc sống bộn bề khiến chúng ta có ít thời gian dành cho bé yêu, đôi lúc chưa để ý và chăm sóc đúng mức răng miệng cho bé.


Bệnh răng miệng- Bạn có biết?

80% vi khuẩn gây bệnh răng miệng không nằm trên răng, bàn chải đánh răng thường không thể làm sạch được những vùng khó tiếp cận trong khoang miệng.

Mặt khác, trẻ nhỏ thường không biết chải răng đúng cách, các bé hay ăn quà vặt, bánh kẹo, uống sữa hàng ngày (dễ tạo mảng bám), môi trường sống ô nhiễm,… sẽ dẫn tới sâu răng, mủn răng và các bệnh răng miệng, họng. Hầu hết các bậc cha mẹ lại chưa có thói quen kiểm tra tình trạng răng miệng của con; chỉ tới lúc bé bị viêm lợi nặng, đau răng, chảy máu chân răng, sâu răng chúng ta mới đưa con đến Nha sỹ.

Chớ coi thường các biểu hiện lạ vào răng miệng ở trẻ !!

Trẻ thường bị sâu răng, đốm màu sậm như cà phê gây đau nhức, khó nhai, sốt ; viêm lợi, đỏ và sưng tấy, dễ chảy máu chân răng, hôi miệng… lâu dần có thể dẫn đến các biến chứng như: Viêm tủy răng, hoại tử, áp xe răng gây ảnh hưởng lớn đến sinh hoạt và học tập của trẻ, giá thành điều trị bệnh răng miệng thường rất cao, khiến các bậc cha mẹ không ít lo lắng.

Cần làm gì để chăm sóc răng miệng cho trẻ?

Nhắc nhở bé hiểu được hưởng ích, tầm nhu yếu của ý thức bảo vệ sức khỏe răng miệng ngay từ sớm, gìn giữ vệ sinh ăn uống, giảm thiểu sử dụng đồ ngọt, đồ nóng, lạnh và nên kiểm tra định kỳ tình trạng răng miệng cho bé. Ngoài việc hướng dẫn trẻ đánh răng hàng ngày, các bậc cha mẹ nên kết hợp dùng nước súc miệng cho bé vì dung dịch nước súc miệng có thể về sâu tận các khe răng, các vùng mà bàn chải đánh răng khó tiếp cận, giúp cuốn trôi mảng bám, làm sạch răng miệng hiệu quả!

Nước súc miệng nào an toàn cho bé?

Vấn đề an toàn luôn được ưu tiên bậc nhất đối với các sản phẩm chăm sóc răng miệng cho trẻ nhỏ.

Nước muối chứa Natri chlorid có tác dụng sát khuẩn chống viêm tốt, an toàn, được sử dụng khá phổ biến để phòng ngừa một số bệnh răng miệng; nhưng chưa đủ để chăm sóc răng miệng toàn diện cho trẻ nhỏ.

Để đáp ứng nhu cầu chăm sóc răng miệng cho trẻ, công ty Traphaco – thương hiệu dược phẩm hàng đầu Việt Nam đã nghiên cứu, phát triển và đưa ra thị trường nước súc miệng trẻ em T-B Kid  - sự kết hợp tối ưu 3 thành phần được các Nha sỹ tin dùng: Natri chlorid - sát khuẩn, Xylitol - ngừa sâu răng, Natri fluorid – giúp răng chắc khỏe. Với nước súc miệng T-B Kid, bé dễ dàng dùng để làm sạch cặn bám trên răng. Đặc biệt, bé được ngăn ngừa sâu răng, mủn răng và các bệnh răng, miệng, họng.

Nước súc miệng T-B Kid được nghiên cứu và sản xuất dành riêng cho trẻ nhỏ, hương vị hấp dẫn, an toàn, không gây hại nếu như bé lỡ nuốt. Các bậc cha mẹ nên tạo cho bé thói quen đánh răng kết hợp với sử dụng nước súc miệng hàng ngày để chăm sóc răng miệng hiệu quả.

Sản xuất bởi: Công ty cổ phần Traphaco, 75 Yên Ninh – Ba Đình – Hà Nội. ĐT: (04) 38430076. Website: http://www.traphaco.com.vn

Nước súc miệng trẻ em T-B Kid hiện có bán ở các hiệu thuốc trên toàn quốc.